HBN
Từ nửa sau thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại phát triển với tốc độ nhanh, với trình độ ngày càng cao. Bước tiến phi thường của cuộc cách mạng này dẫn tới việc xây dựng nhiều ngành công nghệ cao, như công nghệ hạt nhân, công nghệ điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và nhiên liệu mới, công nghệ vũ trụ, công nghệ thông tin,... đặc biệt là thúc đẩy sự phát triển công nghệ thông tin và sự ra đời của thời đại tin học. Trong thời đại “hậu công nghiệp” hay “xã hội thông tin” ngày nay, lý lẽ đưa ra để bác bỏ lý luận GTTD có vẻ “thuyết phục” hơn. Ở các nước tư bản phát triển, mức sống của đại đa số công nhân được nâng cao hơn trước rất nhiều, một số công nhân đã có cổ phiếu trong các xí nghiệp, công ty tư bản, xuất hiện tầng lớp trung lưu đông đảo. Vì thế, nảy sinh luận điệu không còn có sự “phân biệt tư bản và lao động”, “không ai bóc lột ai”, CNTB nếu còn bóc lột thì chỉ bóc lột “người máy”. Vì trong các xí nghiệp hiện đại, tự động hóa, quá trình sản xuất ra sản phẩm không cần hoặc cần rất ít lao động sống, nhưng giá trị do các xí nghiệp này tạo ra tăng gấp bội so với các xí nghiệp cổ điển dùng rất nhiều công nhân,...
Những
luận điểm “mới mẻ” ấy quả thật cũng có sự hấp dẫn, nhưng chúng không bác
bỏ được sự thật. Chủ nghĩa tư bản mặc dù có những bước phát triển mới, biến đổi
về lượng và chất cục bộ, nhưng bản chất bóc lột không hề thay đổi.
Ngày nay, CNTB tuy có những
điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở
mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của CNTB tư nhân vẫn tồn
tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của nó vẫn không hề thay đổi. Nhà nước tư sản
hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế - xã hội, nhưng về cơ
bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản. Những khái niệm và luận điểm
phản ánh, đề cập những sự kiện, quan hệ kinh tế - xã hội mới nhất bao giờ cũng
hấp dẫn người ta. Nhưng chúng không bác bỏ được thực tế là: không phải lao động
quá khứ như máy móc, thiết bị kỹ thuật làm ra giá trị mới, mà lao động sống mới
làm ra giá trị mới, lao động sống mới tạo ra GTTD trong thời đại kinh tế công
nghiệp trước đây đã như vậy, trong kinh tế tri thức hiện đại cũng vậy.
Tuy nhiên, do trình độ đạt
được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, mà một
bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức sống tương đối
sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn bị nhà tư bản
bóc lột GTTD. Chỉ có điều khác biệt ở chỗ, quy luật GTTD ngày càng phát huy tác
dụng mạnh mẽ trong điều kiện toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, song, cơ chế tác
động của quy luật này phức tạp hơn, hình thức bóc lột GTTD tinh vi hơn nhiều so
với trước đây. Trong điều kiện hiện nay, sản xuất GTTD có những đặc điểm
mới:
Một là, do kỹ thuật
và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi, nên khối lượng GTTD được tạo ra
chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ
thuật và công nghệ hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động sống cho một đơn vị
sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động sống
hơn. Hơn nữa, nhà tư bản thông qua sử dụng ồ ạt các thiết bị tự động hóa,
đem khoa học - kỹ thuật hiện đại ứng dụng với quy mô lớn vào sản xuất, đã nâng
cao rất nhiều lần năng suất lao động. Vì thế, họ thuê ít công nhân hoặc không thuê
công nhân điều khiển máy móc mà vẫn có thể giành được GTTD nhiều hơn. Sự thực
đó cũng không thể phủ định lý luận giá trị lao động và nguyên lý cơ bản của lý
luận GTTD, tức là giá trị và GTTD đều do lao động sống của người lao động sáng
tạo ra, lao động sống là nguồn gốc duy nhất của giá trị và GTTD. Các yếu tố sản
xuất khác (máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ,... kể cả người máy) đều
không tạo ra giá trị và GTTD.
Trong nền kinh tế công nghiệp
trước đây đã như thế thì ngày nay, trong điều kiện kinh tế tri thức cũng như
vậy. Ai cũng biết, khoa học - kỹ thuật và thiết bị tự động hóa, cùng yếu tố sản
xuất khác đều là sản phẩm lao động và có giá trị, đều thuộc về TLSX và điều
kiện vật chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất TBCN. C. Mác chưa bao giờ
phủ định “tác dụng quan trọng” của tư liệu lao động trong quá trình sản xuất.
Khi trình bày sự hình thành giá trị và làm tăng thêm giá trị, C. Mác khẳng định
tiền đề của nó là TLSX (nguyên liệu và tư liệu lao động) không thể thiếu của
sản xuất GTTD.
Dù máy
móc tự động hóa đã thay thế lao động trực tiếp và một bộ phận lao động trí óc
của con người, nhưng không thay thế được địa vị lao động của con người, càng
không thể thay đổi địa vị chủ thể của con người trong quá trình sản xuất.
Do đó, bất cứ lao động
nào, dù là lao động giản đơn hay lao động trí tuệ mà không được trả công tương
xứng với giá trị mà lao động đó sáng tạo ra (sau khi trừ các khoản chi phí cần
thiết) trong TBCN đều bị bóc lột GTTD.
Hai là, cơ cấu lao
động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn. Hàm lượng
chất xám (sự đầu tư trí tuệ của công nhân, trí thức, kỹ thuật lập trình,
nhà khoa học phát minh, sáng chế, nhà quản trị và công nghệ hiện đại), nên lao
động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao
động cơ bắp, dẫn đến lao động trí tuệ, lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày
càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất ra GTTD. Thu nhập chủ yếu của
nhà tư bản trong điều kiện kinh tế tri thức cũng không phải công quản lý mà từ
phần lao động thặng dư của người lao động làm thuê, chủ yếu là lao động trí
tuệ, nhà tư bản chiếm lấy. Chính nhờ sử dụng lực lượng lao động này mà tỷ suất
và khối lượng GTTD đã tăng lên rất nhiều.
Sự điều chỉnh của CNTB độc
quyền nhà nước và của CNTB độc quyền nhà nước quốc tế đã làm cho sự bóc lột
GTTD mang tính hai mặt: vừa tăng cường, vừa hạn chế. Tăng cường vì
có môi trường đầu tư thuận lợi: cung cấp TLSX, chỉ dẫn và định hướng quá trình
sản xuất GTTD; điều chỉnh dòng chảy GTTD tư bản hóa,... Hạn chế vì sử dụng các
luật lệ, chính sách để điều chỉnh khi sự bóc lột của các công ty tư bản “quá
ngưỡng” có thể xảy ra nguy cơ xung đột về chính trị và xã hội. Ngày nay, sự
điều tiết phân phối GTTD của các nhà tư bản qua thuế, quỹ phúc lợi xã hội, bảo
hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp,... cũng tạo nên một số thu nhập nào đó cho
người lao động.
Sự xuất hiện chế độ sở hữu hỗn
hợp với sự hiện diện của các công ty cổ phần, trong đó đại bộ phận là sở hữu tư
nhân tư bản với một bộ phận nhỏ cổ phần của người lao động đã làm giảm đi một
phần nào tính gay gắt của mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa cao của lực lượng
sản xuất xã hội với chế độ sở hữu tư nhân TBCN về TLSX. Trong lĩnh vực quản lý
và phân phối cũng có những điều chỉnh đáng kể. Việc cho người công nhân được
mua cổ phiếu, tham dự hội nghị cổ đông, việc giảm thiểu thời gian lao động
trong tuần,... dường như là chiếc van điều áp, giảm thiểu mâu thuẫn giữa tư bản
và lao động.
Nhưng đó là cách nhìn phiến
diện, không thấy đằng sau, phía trước sự phát triển ấy là gì. Trước hết phải
thấy rằng, CNTB đã có nhiều thế kỷ phát triển, bánh xe vận hành của nó đã lăn
đi trong máu và nước mắt của nhân dân lao động trên trái đất này. Lật lại các
trang lịch sử của nó là sẽ thấy những gì mà chế độ tư bản đã đối xử với đồng
loại của mình. Vì chế độ thực dân xâm lược mà cuối thế kỷ XIX, hàng chục triệu
người Ấn Độ, các nước châu Phi, Trung Quốc, Bra-xin, Triều Tiên, Nga, Việt Nam
và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn hán, dịch bệnh. Và ngay trong lòng các
nước tư bản giàu có hiện nay, ai dám chắc mọi người dân đều có cuộc sống tốt
đẹp? Nếu khẳng định được thì tại sao ngay tại nước Mỹ hùng mạnh, phát triển,
hiện đại, vẫn còn tồn tại các khu nhà ổ chuột của người da đen và người nhập
cư?
Ba là, điểm cần lưu ý,
xem xét quan hệ bóc lột của CNTB ngày nay không chỉ bó hẹp trong quan hệ giữa
nhà tư bản và người lao động làm thuê ở các nước TBCN, mà phải xem xét cả quan
hệ thống trị, bóc lột của các nước phát triển với các nước kém và đang phát
triển, thể hiện ở sự phân hóa hai cực: giàu, nghèo của thế giới. Bởi vì, sự
bóc lột GTTD của CNTB đã mang “tính quốc tế”.
Ngày nay,
trong điều kiện toàn cầu hóa, CNTB độc quyền nhà nước quốc tế, thông qua các
hình thức, như xuất khẩu tư bản, di chuyển lao động từ nước này sang nước khác,
việc bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, tình trạng bất bình đẳng trong
các quan hệ thương mại quốc tế, sự xuất hiện cái gọi là chủ nghĩa thực dân kinh
tế, sự áp đặt chính sách giữa Đông và Tây, giữa các nước giàu với các nước
nghèo,... khiến cho việc sản xuất GTTD mang tính quốc tế, được tư bản hóa, được
xuất khẩu để quốc tế hóa tư bản với sự đa dạng của các hình thức sản xuất ra
nó.
Bốn là, những
sự “điều chỉnh” để thích ứng của CNTB tuy có tác động tới sự phát
triển, song đưa lại hệ quả xấu là khoét sâu thêm khoảng cách giữa giàu và
nghèo, làm cho các nước nghèo ngày càng nghèo hơn, các nước giàu ngày càng giàu
hơn. Tích tụ tư bản và bóc lột công nhân là hai quá trình thực tế không
tách rời nhau. Điều đó được xác nhận qua sự thành lập các tập đoàn kinh tế
khổng lồ trên cơ sở tăng cường bóc lột bằng những phương thức mới, qua nạn
thất nghiệp phổ biến đang trở thành hiện tượng kinh niên. Mặt khác, điều đó
cũng xác nhận cho học thuyết của C. Mác khi nói rằng đi kèm sự phát triển của
CNTB là hiện tượng tăng tư bản bất biến (dùng để mua TLSX) và giảm tư
bản khả biến (dùng để mua lao động). Vì thế “đội quân hậu
bị” trở thành yếu tố thuộc về bản chất của CNTB. Sự phân cực trong vấn đề
tài sản tự nó là biểu hiện của tình trạng bất bình đẳng xã hội ngày càng tăng ở
mỗi nước và trên phạm vi thế giới. Cực tích tụ của cải và cực tích tụ đói
nghèo là hai mặt của một đồng tiền tư bản ở từng nước và trên phạm vi thế giới.
Hiện nay, trong phạm vi quốc
gia, CNTB hiện đại cố gắng xây dựng một hệ thống pháp luật đa dạng, phổ cập
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo điều kiện cho quá trình “điều
chỉnh” của CNTB tư nhân đối với các quá trình kinh tế. Để điều hòa các mâu
thuẫn hiện tại của nó, CNTB tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế nhằm thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Động thái này được tiến hành trong sự
kết hợp với việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và hiệu quả sản xuất,
giảm bớt chi phí xã hội, mở rộng môi trường cạnh tranh,... Vì thế, việc nhà
nước tư sản ở các nước công nghiệp phát triển chiếm hữu và phân phối từ 30% -
60% thu nhập quốc dân và sử dụng một phần từ siêu lợi nhuận thu được để trả
công cho người lao động dễ tạo ra trong người lao động một “ảo
giác” về tình trạng không bị bóc lột.
Những
phân tích trên đây chưa thể nói lên tất cả những mâu thuẫn, xung đột ngày càng
gay gắt trong lòng xã hội tư bản hiện nay, nhưng cũng đã phác họa được bức
tranh khái quát về những hình thức biểu hiện mới của vấn đề bóc lột của tư bản
đối với lao động trên toàn thế giới. Nhưng, dù những hình thức bóc lột có biến
tướng, tinh vi đến mức nào chăng nữa thì bản chất bóc lột của tư bản đối với
lao động vẫn là bóc lột GTTD - tức là bóc lột lao động sống của người lao động
chứ không thể bóc lột lao động “chết” của máy móc được. Do vậy, nói một cách
khác, học thuyết GTTD vẫn còn nguyên giá trị, CNTB vẫn giữ nguyên bản chất bóc
lột của nó.
Luận điểm của C. Mác và Ph.
Ăng-ghen về chế độ người bóc lột người trong xã hội tư bản vẫn giữ nguyên giá
trị khoa học. Mặc dù đã có sự thay đổi và điều chỉnh, song có thể khẳng
định: bản chất bóc lột của CNTB không thay đổi; khi nào những mâu thuẫn
trong lòng xã hội tư bản còn tồn tại thì khi ấy, học thuyết GTTD vẫn sẽ mãi là
ánh sáng chỉ đường cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và loài người
khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột của CNTB.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét