XỬ LÝ TỘI
VU KHỐNG
Danh dự, nhân phẩm, uy tín hay còn gọi là phẩm giá là những
giá trị cơ bản của một con người, phản ánh sự tồn tại tối thiểu của họ trong xã
hội. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của mỗi người là vô giá và cần được tôn trọng
và bảo vệ. Thế nhưng, trên thực tế, có những người rất coi trọng phẩm giá của
bản thân nhưng vì sự ích kỷ, vì những tổn thương của bản thân, vì những mâu
thuẫn va chạm mà chà đạp lên phẩm giá của người khác, lại còn sẵn sàng “gắp lửa
bỏ tay người”, bịa đặt, vu khống cho người khác nhằm xúc phạm đến danh dự, nhân
phẩm của người khác.
Nhưng, mỗi người đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Dù họ không hiểu hay cố tình không hiểu thì hành vi “vu khống” xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác đều được xác định là hành vi vi phạm pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trong đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu khống.
Căn cứ theo quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 2015, được thay thế
, sửa đổi bởi điểm e khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự 2015 thì tùy vào mức độ hành vi vi phạm mà người phạm tội vu khống có
thể bị xử phạt với các mức hình phạt như sau:
– Mức 1: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng hoặc bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ
03 năm đến 01 năm:
Mức hình phạt này được áp dụng chung đối với những người đã có hành vi vu
khống, thể hiện ở việc bịa đặt, loan truyền những thông tin sai sự thật, không
có cơ sở về người khác nhằm mục đích để xúc phạm đến danh sự, nhân phẩm của họ
một cách nghiêm trọng hoặc nhằm mục đích gây thiệt hại đến quyền lợi của họ. Hoặc
áp dụng trong trường hợp họ bịa đặt, vu cáo người khác lên cơ quan thẩm quyền rằng
một người phạm tội mà không có bất kỳ cơ sở nào.
– Mức 2: Phạt tù 01 năm đến 03 năm
Cũng thực hiện hành vi “vu khống” như trên nhưng nếu người thực hiện hành
vi phạm tội có các tình tiết như: có tổ chức,
vu khống những người thân thích có công nuôi dưỡng mình (như ông, bà, cha, mẹ,
người dạy dỗ, chữa bệnh cho mình), vu khống từ hai người trở lên hoặc vu khống
người đang thi hành công vụ; hoặc có tình tiết lợi dụng chức vụ quyền hạn của
mình để thực hiện hành vi vu khống hoặc sử dụng mạng máy tính, viễn thông,
phương tiện điện tử để phạm tội; vu khống từ 02 người trở lên; hoặc vu khống
người khác về tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; hoặc có tình tiết
gây rối loạn về tâm lý cho nạn nhân từ 31% đến 60% thì trường hợp này, người phạm
tội có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
– Mức 3: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm
Cũng thực hiện hành vi vu khống để xúc phạm danh dự,
nhân phẩm của người khác nhưng mục đích phạm tội xuất phát từ động cơ đê hèn hoặc
dẫn đến hậu quả làm cho người bị vu khống tự sát hoặc gây rối loạn tâm thần và
hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên thì sẽ bị phạt từ
từ 03 năm đến 07 năm.
Ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt nêu trên thì
người phạm tội vu khống còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc thực hiện công việc
theo quy định từ 01 đến 05 năm.
Như vậy, danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị cốt lõi làm nên giá
trị của một con người. Do vậy, hành vi vu khống nhằm xúc phạm nghiêm trọng đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
khác đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự khi đáp ứng đủ các yếu tố cấu thành của Tội vu khống theo
quy định của Bộ luật hình sự năm 2015. Mức hình phạt đối với người phạm tội vu
khống sẽ được xác định dựa trên mức độ nguy hiểm của hành vi, hậu quả mà hành
vi đó gây ra và các tình tiết của hành vi phạm tội đó.
Xuân Trường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét