Nơi chia sẻ và nói lên những quan điểm theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của nhà nước. Lên án những tư tưởng thù địch chống phá cách mạng và sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam XHCN.
Câu nói đó trích trong bài trả lời các nhà báo
của Hồ Chủ tịch, đăng trên báo Cứu Quốc, số 1827, ra ngày 28/5/1951. Người chỉ
rõ: Trong thời đại ngày nay còn chủ nghĩa đế quốc, thực dân thì còn nguy cơ xảy
ra chiến tranh bắt nguồn từ chính bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc, chiến tranh là bạn đường của chủ nghĩa đế quốc. Chiến tranh không phải
bắt nguồn từ bản năng sinh vật con người, không phải là định mệnh và cũng không
phải là hiện tượng xã hội tồn tại vĩnh viễn, mà chiến tranh có nguồn gốc từ chế
độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có đối kháng giai cấp, có áp bức bóc
lột. Câu nói này là lời cảnh giác cho đồng bào, cán bộ, chiến sĩ trước những
chiêu trò, thủ đoạn lừa bịp mà đế quốc Mỹ thực hiện trong cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam; để toàn dân, toàn quân nâng cao cảnh giác cách mạng, đoàn kết,
nhất trí, anh dũng, kiên cường đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột của đế quốc,
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và giàu mạnh, văn
minh.
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản nói
chung, chủ nghĩa đế quốc nói riêng luôn tìm cách thích nghi trước sự biến đổi
nhanh chóng, phức tạp của tình hình trước sự tác động của cuộc Cách mạng công
nghiệp lầm thứ tư. Các nước, nhất là nước lớn, có thể sử dụng thành
tựu khoa học, công nghệ quân sự vào mục đích không chính nghĩa, sử
dụng “sức mạnh mềm”, can dự, chi phối về chính trị, chính sách đối nội,
đối ngoại của các nước khác; thực hiện “điều khiển” từ xa, từ bên
ngoài, buộc các nước đang phát triển, chậm phát triển phải phụ
thuộc, mất độc lập, tự chủ, khó nhận thấy hoặc nhận thấy nhưng khó
cưỡng lại. Nhu cầu đầu tư vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự công
nghệ cao có thể dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang rất tốn kém và càng
phải phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ các nước phát triển. Trong khi
đó, thế giới chưa có cơ chế để quản lý, giám sát việc ứng dụng các
thành tựu khoa học, công nghệ quân sự mới để hạn chế tác động từ
mặt trái của Cách mạng công nghiệp 4.0. suy đến cùng thì đường lối chính
trị của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địchvẫn luôn chứa đựng nguy cơ
chiến tranh. Câu nói của Người vẫn là tiếng chuông cảnh báo, để thức tỉnh những
ai vẫn đang mơ hồ trước những chiêu trò lừa mị của các thế lực thù địch.
Trong quá trình đất nước ta mở cửa, hội nhập
quốc tế như hiện nay, trước hết chúng ta phải đề cao cảnh giác, nhận rõ đối
tượng, đối tác, chủ động đấu tranh phòng, chống làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “
diễn biến hòa bình”, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất
nước, giữ vững định hướng xã hội; đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, quyết tâm giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc.
Thứ hai là trong lĩnh vực quân sự, quốc
phòng, chúng ta cần cần phải đổi mới tư duy về quân sự, quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Phải khẳng định rằng, hiện
nay và thời gian tới, sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
là xu thế tất yếu. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức rõ ràng, sâu sắc
hơn về vai trò, tác động của cuộc cách mạng này cả mặt tích cực và
tiêu cực đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng Việt Nam; từ đó, xác lập
các giải pháp đồng bộ, thiết thự; tập trung đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao. Đây là vấn đề rất quan trọng, bởi con người chính là nhân
tố quyết định trong việc ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ
quân sự của Cách mạng công nghiệp 4.0; nghiên cứu phát triển khoa học
nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự và khoa học kỹ
thuật, hậu cần quân sự đồng thời chú trọng xây dựng và phát triển công
nghiệp quốc phòng. Đây là lĩnh vực chịu tác động mạnh mẽ, sâu sắc từ
Cách mạng công nghiệp 4.0, đồng thời là nhân tố có vai trò quan trọng,
trực tiếp chế tạo các sản phẩm công nghệ cao trang bị cho Quân đội.
Cùng với đó, cần đẩy mạnh bổ sung, điều chỉnh, xây dựng cơ chế,
chính sách, chiến lược, tập trung nguồn lực thực hiện các chương
trình dự án trọng điểm. Qua đây để chúng ta tận dụng cơ hội, hạn chế
thách thức, khó khăn, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới.
M.N
Cách mạng công nghệp 4.0 nhất là trong lĩnh vực
kỹ thuật số (Thế giới vạn vật - IoT, cơ sở dữ liệu lớn - Big Data, trí tuệ nhân
tạo - AI) đã mang lại cho loài người nhiều lợi ích làm chất lượng cuộc sống
ngày càng phong phú, giá trị. Bên cạnh những tiện ích của internet mang
lại thì mặt trái của nó là không nhỏ; đặc biệt là đối tượng sử dụng nó vào việc
gì và nhằm mục đích gì. Hiện nay, các thế lực thù địch đã triệt để tận dụng
mạng internet, không gian mạng để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”
chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng xem internet là “sức mạnh mềm” để chống lại
“sức mạnh cứng”…
Trên không gian mạng, các thế lực thù địch, đối
tượng phản động, chống đối công khai, ráo riết tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phê phán, đả kích, phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; xuyên tạc, bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo chính quyền các cấp, kêu gọi “tự do,
dân chủ, nhân quyền”, đòi "phi chính trị hóa" lực lượng Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân. Chúng thành lập các trang (fanpage), các nhóm (group),
các tài khoản có lượng người theo dõi lớn để phát tán thông tin phản động. Các
đối tượng còn sử dụng các mạng xã hội khác như Zalo, Viber, Skype, facebook… để
móc nối, lôi kéo, tập hợp, huấn luyện các đối tượng trong nước phục vụ cho mục
đích chống phá ta. Ngoài ra, chúng sử dụng các tài khoản ảo tham gia diễn đàn
có số lượng lớn người theo dõi, kích động người dân phản biện tiêu cực. Qua
đó, “chuyển hóa” hoặc tuyển lựa nhiều thành viên trở thành công cụ tuyên
truyền đắc lực cho chúng. Nhất là tại các địa bàn xảy ra điểm “nóng” được chúng
xem là “thời cơ vàng” để thực hiện âm mưu chống phá. Đặc biệt trong thời gian
gần đây, nhất là khi chúng ta đang chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp
tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, chúng càng đẩy mạnh
thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” một cách toàn diện, trong đó tập trung vào các lĩnh vực tư tưởng chính
trị, kinh tế, pháp luật, quốc phòng, an ninh, nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công
tác nhân sự đại hội...
Có thể nhận định, không gian mạng là “mảnh
đất màu mỡ” để các thế lực thù địch “truyền bá” những quan điểm, tư tưởng sai
trái. Nhận diện rõ âm mưu phá hoại tư tưởng trên không gian mạng nhằm thực hiện
mưu đồ chính trị của thế lực thù địch để mỗi người nâng cao tinh thần cảnh
giác, không nghe theo luận điệu sai trái, không có việc làm sai trái, ảnh hưởng
đến lợi ích quốc gia, dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Ban Chấp hành Trung ương./.
D.M
Việc chuẩn bị và tiến hành đại
hội đảng bao gồm rất nhiều nội dung, trong đó chuẩn bị về tư tưởng được
Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị xác định là nội
dung quan trọng hàng đầu của các cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Đây
là những nét mới, sáng tạo được bắt đầu từ tính chủ động, đề cao trách nhiệm
của tập thể Thường vụ Quân ủy Trung ương, cùng các cấp ủy và đội ngũ cán bộ chủ
trì, chủ chốt toàn quân. Trong đó, việc sớm thống nhất nhận thức, đồng thuận về
ý chí và quyết tâm hành động được xem là những thành công có tính chất nền tảng
trong tiến hành công tác chuẩn bị đại hội để thực hiện tốt nhất ý kiến chỉ đạo
của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ, là: Đại hội đảng
các cấp trong quân đội, nhất là Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI
phải là đại hội tiêu biểu, mẫu mực nhất của cấp trực thuộc Trung ương về tổ
chức và tiến hành đại hội.
Với những bước triển khai chủ động từ sớm, nên
khi có Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị cùng nhiều văn bản
chỉ đạo khác của Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội đã
tổ chức quán triệt, học tập tư tưởng, nội dung, mục đích, yêu cầu... chuẩn bị và
tiến hành đại hội đảng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng trong toàn
đảng bộ; đồng thời làm tốt việc phân công các đồng chí cấp ủy viên trực tiếp
theo dõi, chỉ đạo các mặt công tác, lĩnh vực phụ trách. Nhờ đó, đến khoảng giữa
tháng 01/2020, các tổ chức cơ sở cơ bản đã hoàn thành công tác chuẩn
bị; nhất là dự thảo báo cáo chính trị được chuẩn bị công phu, nghiêm túc; công
tác nhân sự được tiến hành chặt chẽ, đảm bảo quy trình, nhờ cách làm đó, 100%
cán bộ, đảng viên, quần chúng đều tích cực tham gia vào công tác chuẩn bị đại
hội và bày tỏ tin tưởng vào thành công của đại hội
Với những bước “đi trước, đón đầu” chủ động,
sáng tạo đã xây dựng tâm thế sẵn sàng và vững vàng trong chuẩn bị, tiến hành
đại hội Đảng, tạo nên bầu không khí lạc quan, dư luận tích cực, phấn khởi về
thành công của đại hội Đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội, tính đến ngày
14-9-2020, 60/60 đảng bộ trực thuộc Quân ủy Trung ương đã tổ chức thành công
đại hội nhiệm kỳ 2020-2025 thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sáng suốt
của Thường vụ Quân ủy Trung ương trong quá trình làm công tác chuẩn bị và tiến
hành đại hội; là cơ sở, nền tảng vững chắc để Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội
lần thứ XI thành công tốt đẹp.
Theo kế hoạch, Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội
lần thứ XI được tổ chức từ ngày 27/9/2020 đến ngày 30/9/2020, tại Hội trường Bộ
Quốc phòng (phiên trù bị 1 ngày và phiên chính thức 3 ngày). Đại hội được tiến
hành theo phương châm: “Đoàn kết - Trí tuệ - Bản lĩnh - Dân chủ - Kỷ cương”,
với chủ đề: “Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh tiêu biểu; xây dựng Quân
đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân
chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; phấn đấu từ năm 2030 xây
dựng Quân đội hiện đại, làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển đất nước”.
Tham dự đại hội có 450 đại biểu chính thức,
trong đó 20 đại biểu đương nhiên và 430 đại biểu được bầu từ đại hội của 60
đảng bộ trực thuộc Quân uỷ Trung ương. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng, Bí thư Quân uỷ Trung ương dự và trực tiếp chỉ đạo đại hội./.
G.M
Mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch là
“phi chính trị hóa” Quân đội, tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Cách
thức phổ biến của chúng là phát tán tài liệu, tuyên truyền trên các trang mạng
xã hội về “Quân đội phi giai cấp”; Quân đội là công cụ của Nhà nước, chỉ có sứ
mệnh, chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, chứ Quân đội không thuộc một thể chế
chính trị nào, vì thế không có trách nhiệm bảo vệ Đảng, từ đó hòng làm cho Quân
đội ta biến chất về chính trị, mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu,…
Không dừng lại ở đó, thời gian gần đây, các thế
lực phản động còn đẩy mạnh tuyên truyền kích động, chia rẽ mối đoàn kết máu
thịt quân - dân và xuyên tạc bản chất, truyền thống, hạ thấp uy tín của Quân
đội. Đây là thủ đoạn hết sức nham hiểm, nhằm phá vỡ nền tảng chính trị - xã hội
của Quân đội ta. Điểm dễ nhận thấy là lợi dụng một số mâu thuẫn nhỏ trong xã
hội để quy kết, kích động, chia rẽ quan hệ quân - dân và bản chất, truyền
thống, chức năng của Quân đội và cho rằng bản chất Bộ đội Cụ Hồ không còn nữa.
Cảnh giác, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn xấu độc của các thế lực thù địch nhằm vào Quân đội, chúng ta cần tiến hành
đồng bộ các biện pháp: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư
tưởng, nâng cao nhận thức cho bộ đội và nhân dân về bản chất, chức năng, truyền
thống, vai trò của Quân đội; nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà
nước về chức năng lao động sản xuất, tham gia phát triển kinh tế, xây dựng đất
nước của Quân đội. Mỗi cán bộ, chiến sỹ và toàn dân cần có thông tin đầy đủ,
chính xác về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội,…
Kiên quyết đấu tranh, phản bác những thông tin xấu, độc của các thế lực thù
địch, phần tử cơ hội…
D.M
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích
trong bài viết “Muốn thành cán bộ tốt, phải có tinh thần tự chỉ trích”, đăng
trên báo Cứu quốc, số 51, ngày 26 tháng 9 năm 1945, ký bút danh Chiến Thắng.
Đây là thời điểm cách mạng Tháng Tám năm 1945
mới giành được thắng lợi, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời; chấm
dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới
ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở
thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ
một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ.
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, đã xuất hiện tư
tưởng tự cao, tự đại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; để kịp thời phê bình,
chấn chỉnh và khắc phục những hạn chế, yếu kém trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết bài: “Muốn thành cán bộ tốt, phải có tinh thần tự chỉ trích”, đăng trên
báo Cứu quốc.
Lịch sử ra đời, hoạt động và lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng của Đảng đã chứng minh, chỉ khi nào Đảng dám nhìn thẳng vào sự thật,
nói đúng sự thật, nghiêm túc tự phê bình và phê bình thì khi đó Đảng mới có thể
nhận thức được đúng quy luật khách quan và có quyết sách đúng đắn để tạo chuyển
biến, đưa cách mạng tiến lên. Đây là công việc khó, đòi hỏi phải có dũng khí,
có phương pháp, phải “thấu tình đạt lý” mới mang đến hiệu quả thiết thực. Bởi
vì, nó đòi hỏi mỗi người phải tự phân tích, mổ xẻ những ưu, khuyết điểm của
chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người khác. Nếu không thật tự
giác, chân thành, công tâm thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy ưu điểm, mặt
mạnh của mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy khuyết điểm, mặt yếu của
người khác nhiều hơn mình.
Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, quán triệt và triển
khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương Đảng, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Đảng bộ Quân
đội và toàn quân luôn gương mẫu đi đầu trong triển khai thực hiện việc tự phê
bình và phê bình ở mọi cấp, mọi ngành. Đặc biệt, để tự phê bình và phê bình đi
vào thực chất và hiệu quả, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã luôn yêu cầu đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ chủ chốt phải gương mẫu, đi đầu trong tự
phê bình và phê bình; qua đó, tạo không khí dân chủ, biết và dám tự phê bình và
phê bình. Trong sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy phải có thái độ nghiêm túc
kiểm điểm, đánh giá đúng ưu, nhược điểm của các cấp ủy viên, các đảng viên,
nhất là các đồng chí cán bộ chủ trì, chủ chốt để kịp thời sửa chữa sai sót, yếu
kém, đồng thời thực hiện tốt việc“nói phải đi đôi với làm”, “Trên làm gương mẫu
mực, dưới tích cực làm theo”, “Làm việc theo chức trách, nêu gương trong hành
động”, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ phải có tinh thần tự giác rất cao, có tình
thương yêu đồng chí thật sự và phải có dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân
tình. Phê phán những tư tưởng, thái độ nể nang, hữu khuynh “im lặng là vàng”,
hoặc thái độ cực đoan, muốn lợi dụng phê bình để đả kích người khác, gây rối
nội bộ, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện,
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
A.N
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước. Thời điểm Đại hội cận
kề, các thế lực thù địch càng tăng cường các hoạt động chống phá, tung ra luận
điệu xuyên tạc, sai trái nhằm làm suy giảm niềm tin, phá hoại Đại hội XIII của
Đảng. Những âm mưu, thủ đoạn các thế lực thù địch tập trung chống phá, “diễn
biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam có thể tổng quát phương châm của họ
là: lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá; lấy mua chuộc kinh
tế làm mũi nhọn; lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo làm
ngòi nổ; dùng ngoại giao để hỗ trợ, hậu thuẫn. Đối với “chiến dịch” chống phá
Đại hội XIII của Đảng, âm mưu, phương thức, thủ đoạn của họ thể hiện ở một số
điểm sau đây:
Một là, xuyên tạc bản chất ưu việt của chế độ
XHCN, thể chế chính trị ở Việt Nam, hướng lái từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên
CNXH. Đây là cái đích trong chiến lược “diễn biến hoà bình”; tác động vào nhận
thức, nội bộ nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, hiện thực hóa mục
tiêu chệch hướng XHCN, thủ tiêu chế độ xã hội, lật đổ vai trò lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Hai là, xuyên tạc nền tảng tư tưởng, chủ trương,
đường lối của Đảng, công tác cán bộ, nhân sự Đại hội XIII, thực tiễn công tác
phòng, chống tham nhũng của Đảng trong nhiệm kỳ qua… suy diễn xuyên tạc, vẽ ra
tình cảnh “khủng hoảng toàn diện”, “tình thế hiểm nghèo”, “Tổ quốc lâm nguy”,
“nội bộ lục đục, mất đoàn kết”… Thực tế chỉ là ngụy tạo để đòi hỏi phải “cải
cách”, “đổi mới” chính trị từ gốc là từ bỏ nền tảng tư tưởng, chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng.
Ba là, với luận điệu sai trái, thù địch nêu
trên, họ nhằm tạo nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, hoang mang, dao động,
tác động vào niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào vai trò lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Kích động người dân, nhất là phần tử cơ hội, bất
mãn, khoét sâu yếu kém, hạn chế, bất cập, tạo tâm lý bức xúc, chống đối, mất an
ninh, trật tự trong đời sống xã hội.
Bốn là, phương thức của họ là triệt để lợi dụng
kênh truyền thông Internet, mạng xã hội, các trung tâm truyền thông, các trang
mạng, blog hải ngoại tạo thành “chiến dịch” đồng loạt, “tiền hô hậu ủng”, cổ
suý, hậu thuẫn, tuyên truyền, xuyên tạc đánh vào nhận thức, tâm lý người dân
theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, “góp gió thành bão”.
Năm là, lợi dụng sự kiện có thật, khoét sâu vào
những thiếu sót, yếu kém, hạn chế trong đời sống xã hội để tạo cớ xuyên tạc, vu
cáo như: Các vụ án kinh tế, tham nhũng, tình hình Biển Đông, sự cố môi trường,
vụ việc Đồng Tâm, dịch bệnh, vụ án... Trên cơ sở đó, suy diễn, xuyên tạc theo
chiều hướng tiêu cực, nhằm tạo ra những nhận thức lệch lạc, tâm lý bức xúc, ức
chế, bất mãn đối với chế độ, chính quyền; kích động hành vi chống đối, biểu
tình, bạo loạn, lật đổ.
Sáu là, củng cố các tổ chức đội lốt “dân chủ”,
“nhân quyền”, “xã hội dân sự”, mua chuộc, lôi kéo, tập hợp lực lượng, tổ chức,
kêu gọi biểu tình trái pháp luật. Phương châm của họ là “tích tiểu thành đại”,
các hoạt động, tập hợp lực lượng đủ lớn, đủ mạnh, thúc đẩy các cuộc biểu tình,
“cách mạng đường phố”, “cách mạng màu” là sức ép, phương thức để lật đổ thể chế
chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Rõ ràng đây là những âm mưu thâm độc, nguy hiểm
với phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần
phải đề cao cảnh giác, nhận diện, đấu tranh và không bị mắc mưu của bọn chúng.
C.M
“Công minh, chính xác, kịp thời” là phương châm
công tác kỷ luật của Đảng, điều này nhất thiết phải được quán triệt vào công
tác sàng lọc đảng viên hiện nay. Từ thực trạng công tác sàng lọc đảng viên thời
gian qua, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp cần tiến hành trong thời gian
tới...
Hoàn thiện các quy định, đặc biệt là bộ tiêu chí
sàng lọc
Tất cả cán bộ làm công tác kiểm tra và tổ chức,
từ Trung ương đến cơ sở mà chúng tôi được gặp đều cho rằng: Trung ương cần sớm
có hướng dẫn về tiêu chí, quy trình đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi
Đảng.
Đây cũng là yêu cầu của Ban Bí thư Trung ương
Đảng trong Chỉ thị số 28-CT/TW do đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính
trị, Thường trực Ban Bí thư ký ban hành. Theo đó, Ban Bí thư yêu cầu Ban Tổ
chức Trung ương chủ trì, phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan
liên quan hướng dẫn tiêu chí, quy trình đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra
khỏi Đảng.
Tất nhiên, để đề ra một bộ tiêu chí, quy trình
sàng lọc đảng viên chuẩn mực, rất cần có sơ kết việc sàng lọc đảng viên theo
Chỉ thị số 28-CT/TW trong thời gian vừa qua. Qua khảo sát, tìm hiểu ở đảng bộ
một số địa phương, chúng tôi nhận thấy Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định, có lẽ
là cấp ủy tích cực, tiên phong trong việc nghiên cứu thực tiễn, đề ra tiêu chí
và quy trình sàng lọc đảng viên. Ngay sau khi có Chỉ thị số 28-CT/TW, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định đã ban hành Kế hoạch số 49-KH/TU ngày 12-4-2019
nhằm thực hiện chỉ thị nêu trên. Tiếp đó, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bình Định đã ban
hành Hướng dẫn số 21-HD/BTCTU ngày 26-4-2019 về rà soát, sàng lọc, đưa những
đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng nhằm cụ thể hóa Chỉ thị số
28-CT/TW. Đáng chú ý là văn bản hướng dẫn này đã gợi ý tiêu chí nhận diện những
đảng viên không còn đủ tư cách như sau: (1) Tự ý bỏ sinh hoạt đảng, không đóng
đảng phí 3 tháng trong năm mà không có lý do chính đáng và đã được chi bộ, cấp
ủy nhắc nhở, giáo dục nhưng không sửa chữa, khắc phục khuyết điểm. (2) Tự ý trả
thẻ đảng viên, hủy thẻ đảng viên hoặc dùng thẻ đảng viên để cầm cố vay tiền
hoặc tài sản. (3) Không bảo đảm tiêu chuẩn chính trị theo quy định của Bộ Chính
trị. (4) Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hoặc “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. (5) Không thực hiện đúng chế độ chuyển sinh hoạt hoặc
đã chuyển sinh hoạt đảng nhưng không nộp hồ sơ cho tổ chức đảng có thẩm quyền
trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày giới thiệu chuyển sinh hoạt đảng. (6)
Giảm sút ý chí phấn đấu, không làm nhiệm vụ đảng viên, đã được chi bộ giáo dục
nhưng sau 12 tháng phấn đấu không tiến bộ. (7) Hai năm liền vi phạm tư cách
đảng viên hoặc bị chi bộ, cấp ủy có thẩm quyền đánh giá không hoàn thành nhiệm
vụ hai năm liên tiếp. (8) Thiếu gương mẫu chấp hành chủ trương của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; vô ý thức kỷ luật nhiều lần, uy tín trong nhân dân thấp.
Nội hàm của 8 tiêu chí trên tuy vẫn còn rất
rộng, nhưng trên thực tế, đây cũng là những gợi ý mang tính cụ thể, khả thi cao
mà các đảng bộ khác cần tham khảo và các cơ quan của Đảng ở Trung ương nên xem
xét để bổ sung, cụ thể hóa hơn khi xây dựng bộ tiêu chí chung cho toàn Đảng.
Phải phát huy trách nhiệm của quần chúng
Dựa vào dân để xây dựng Đảng là phương châm
khẳng định nguyên lý Đảng ta “vì nước, vì dân mà tồn tại, phát triển”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ thị: Phải biến hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần
chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, như thế thì những cán bộ,
đảng viên thoái hóa, biến chất sẽ không còn nơi để ẩn nấp. Công tác sàng lọc
đảng viên là công việc đặc biệt phức tạp, rất khó để có ngay những quy định,
quy trình hoàn thiện, “chuẩn không cần chỉnh” ngay từ đầu. Vì vậy, chỉ có
"tai mắt" nhân dân mới soi rọi được những góc khuất mà các quy định
của Đảng chưa đề cập hết.
Hiện nay, quyền giám sát của nhân dân với công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thể hiện rõ nhất trong Quy định số 124-QĐ/TW,
ngày 2-2-2018 của Ban Bí thư về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị-xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối
sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên.Điểm 2, Điều 4
của Quy định số 124-QĐ/TW nêu rõ: “Nhân dân thực hiện quyền giám sát thông qua
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội; phản ảnh, kiến nghị
đến cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã
hội và cơ quan có thẩm quyền về những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên”. Đây là căn cứ rất quan trọng để cấp ủy, tổ chức đảng
các cấp phát huy vai trò của quần chúng nhân dân vào công tác sàng lọc đảng
viên. Tuy nhiên, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần có hướng dẫn
chi tiết, cụ thể để người dân có thể tham gia thực hiện tốt quy định này. Trên
thực tế, người làm công tác mặt trận ở khu dân cư (thôn, bản, tổ dân phố...)
hiện đều là cán bộ kiêm nhiệm, hoặc do trình độ, hoặc do không có thời gian,
đặc biệt là chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung, phương pháp giám sát nên “tai
mắt” nhân dân vẫn chưa được phát huy trong sàng lọc đảng viên.
Quần chúng nhân dân chắc chắn hiểu rõ đảng viên
cùng làm việc hay sống cùng khu vực, chỉ có điều là cấp ủy, tổ chức đảng quản
lý đảng viên có thực sự lắng nghe hay không mà thôi!
Chi bộ là “chìa khóa vàng”
Công tác sàng lọc đảng viên có thành công hay
không, muôn sự do cấp chi bộ có làm tốt hay không.
Chúng tôi khẳng định vấn đề này, xuất phát từ
nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, trong đó quy định mọi đảng viên, từ cán
bộ cấp cao đến đảng viên dự bị, đều phải sinh hoạt trong một chi bộ cụ thể. Cần
nhấn mạnh, vấn đề này đặc biệt quan trọng. V.I.Lênin đã phải trải qua một cuộc
đấu tranh lâu dài, quyết liệt với những kẻ cơ hội để bảo vệ chi tiết này của
nguyên tắc và coi đó là cơ sở quan trọng nhất để phân biệt đảng cách mạng kiểu mới
với các đảng phái kiểu cũ. Đảng viên cùng một chi bộ là những người hiểu rõ
nhau hơn hết thảy. Các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chắc chắn không thể giấu được những người
đồng chí cùng sinh hoạt trong một chi bộ.
Một chuyên gia xây dựng Đảng đã phát biểu: Muốn
nâng cao chất lượng chi bộ, điều cần làm trước tiên là các chi bộ phải sinh
hoạt định kỳ hằng tháng theo đúng quy định. Chi bộ không giữ được nền nếp sinh
hoạt thì mọi nguyên tắc, điều lệ, kỷ luật của Đảng, dù đúng và hay đến mấy cũng
không có tác dụng.
Cho nên, dù các quy định, hướng dẫn của Đảng về
sàng lọc đảng viên có đúng, sát thực tế bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng vô tác
dụng nếu cấp chi bộ không chấp hành.
Ngược lại, ngay khi các quy định, quy chế đang
còn thiếu và chưa đồng bộ như hiện nay, nhưng nếu chi bộ giàu sức chiến đấu thì
việc sàng lọc đảng viên vẫn tiến hành có hiệu quả.
Trong đợt rà soát, sàng lọc vừa qua, đồng chí Bí
thư chi bộ và đồng chí Phó bí thư chi bộ ấp Cây Nính (xã Phước Trạch, huyện Gò
Dầu, tỉnh Tây Ninh) đã bị kỷ luật hình thức khiển trách do không tổ chức sinh
hoạt chi bộ định kỳ và sinh hoạt chi ủy. Đó là kỷ luật cần thiết để giữ gìn kỷ
luật Đảng, là lời cảnh tỉnh, răn đe đối với đội ngũ bí thư chi bộ.
Vì vậy, quy trình sàng lọc đảng viên do Trung
ương ban hành phải đặc biệt nhấn mạnh vai trò của chi bộ, bắt đầu từ chi bộ,
lấy chi bộ là tổ chức trọng tâm của quy trình.
Và như mọi quy trình, rất cần có thời điểm bắt
đầu và kết thúc. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng là công tác thường xuyên, liên
tục nhưng sàng lọc đảng viên rất cần được tổ chức thành đợt, để tập trung sự
lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp. Như đợt sàng lọc đảng viên năm 1971,
Đảng ta đặt ra mốc đến năm 1973 sẽ “cơ bản hoàn thành”. Đối với những chi bộ
yếu kém, chi bộ bị các “nhóm lợi ích” chi phối, rất cần cấp ủy đảng cấp trên cử
cán bộ có trình độ, có uy tín về trực tiếp chỉ đạo.
Nhiều người cho rằng, vào thời điểm hiện nay mà
đề cập việc sàng lọc đảng viên thì “lợi bất cập hại” vì kẻ thù của cách mạng
Việt Nam sẽ lợi dụng vấn đề này để tuyên truyền, kích động; việc đưa ra khỏi
Đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất sẽ làm mất thể diện của một bộ phận
không nhỏ trong Đảng, gây mất đoàn kết nội bộ và làm suy giảm uy tín của Đảng;
hoặc có người cho rằng, chỉ cần tự phê bình và phê bình như lâu nay chúng ta
vẫn làm là đủ. Những quan điểm trên là sai lầm.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã
khẳng định trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 9, khóa XII, ngày
26-12-2018: “Năm 2018, đã xử lý nhiều cán bộ cấp cao, kể cả cán bộ nghỉ hưu,
cán bộ trong các cơ quan bảo vệ, thực thi pháp luật, sĩ quan cấp tướng thuộc
các lực lượng vũ trang, có những trường hợp bị tước các danh hiệu, xử lý hình
sự... Vì sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, sự thượng tôn pháp luật của Nhà nước,
sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng và ý nguyện của nhân dân, chúng ta
phải làm, và sẽ còn tiếp tục làm trong thời gian tới”.
V.N
“Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích
trong “Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội nhà báo Việt Nam”, ngày
08 tháng 9 năm 1962, được đăng trên Báo Nhân dân, số 3089, ra ngày 09 tháng 9
năm 1962.
Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam
diễn ra trong bối cảnh cách mạng nước ta đang trên đà phát triển; miền Bắc đang
tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965). Trong sự nghiệp cách mạng đó, báo chí giữ một vai trò quan trọng,
góp phần không nhỏ vào những thắng lợi của nhân dân ta. Tới dự và phát biểu,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ý kiến chỉ đạo sâu sắc, định hướng cho sự phát triển
của báo chí cách mạng trong thời kỳ này. Câu nói của Bác khẳng định vai trò của
tiếng nói, là một tài sản quý báu của dân tộc, không chỉ những người làm công
tác báo chí, mà mỗi người chúng ta đều phải có ý thức giữ gìn, phát huy những
giá trị to lớn của tiếng Việt trong sự nghiệp cách mạng. Lời Bác dạy năm xưa
đến nay vẫn có giá trị, ý nghĩa sâu sắc, có tác dụng định hướng trong việc sử
dụng ngôn ngữ sao cho đúng, chuẩn xác và phải có ý thức bảo vệ sự trong sáng
của tiếng Việt, làm cho nó lan tỏa, góp phần quan trọng đối với sự phát triển
của nền văn hóa mới trong xu thế hội nhập và phát triển.
Hiện nay, quá trình hội nhập và sự giao lưu văn
hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động không nhỏ đến việc sử dụng ngôn ngữ, tiếng nói.
Bên cạnh những tác động tích cực, tình trạng sử dụng tiếng Việt chưa chuẩn xác,
thậm chí kết hợp với các từ ngữ nước ngoài diễn ra phổ biến. Bên cạnh đó, sự du
nhập của nhiều yếu tố ngoại lai, việc sử dụng ngôn ngữ tự sáng tác trên mạng xã
hội của một bộ phận giới trẻ hoặc như ý tưởng đề xuất thay thế tiếng Việt đang
sử dụng thành bản tiếng Việt mới nhưng thiếu thực tế của một vài cá nhân đã xâm
hại một cách nghiêm trọng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Để giữ gìn tài sản
quý báu của dân tộc không bị mai một, mỗi người chúng ta phải luôn nêu cao ý
thức trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn và làm phong phú hơn vốn ngôn ngữ của mình, cả
trong văn nói và văn viết. Không ngừng trau dồi, nâng cao trình độ sử dụng ngôn
từ thuần Việt, trước hết là sử dụng chính xác, hạn chế việc dùng tiếng nước
ngoài khi không cần thiết. Đặc biệt cần phải kiên quyết loại bỏ việc pha trộn
bừa bãi giữa tiếng Việt với tiếng nước ngoài, sử dụng các từ ngữ méo mó, biến
dạng, làm mất đi giá trị vốn có của ngôn ngữ dân tộc.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi
cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với
việc bảo vệ và phát huy giá trị to lớn của tiếng Việt. Trước hết, phải sử dụng
ngôn ngữ trong sáng trong giao tiếp hằng ngày, không dùng từ ngữ thô tục. Trong
quá trình công tác, nhất là trong công tác tuyên truyền, vận động phải căn cứ
vào đối tượng và mục đích tuyên truyền để sử dụng ngôn từ cho phù hợp, dễ nghe,
dễ hiểu. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải luôn có ý thức tự học, nâng cao trình độ nói
và viết sao cho chặt chẽ, logic, tránh dùng những từ đa nghĩa, khó hiểu. Có như
vậy, mới hạn chế được những sai sót, góp phần bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt.
D.VG
Thời gian gần đây, những luận điệu xuyên tạc
phẩm chất của Quân đội ta mà các thế lực thù địch tung ra là tập trung công
kích trực tiếp vào sự trung thành của Quân đội đối với Đảng. Họ ra sức rêu rao
trên trang phản động “Việt Tân” (đườnglink:
https://www.facebook.com/35182380619/posts/10158534623625620sfns=mo) rằng: "Quân đội phải tuyệt đối trung
thành với đảng, là sản phẩm đặc trưng của các nước độc tài, đặc biệt là các
nước đi theo mô hình cộng sản. Có thể thấy cách tuyên truyền quen thuộc này tại
Trung Quốc, Triều Tiên và khối XHCN”.
Trung thành với Đảng, trung với nước, hiếu với
dân là những nội dung phẩm chất cơ bản, cốt lõi gắn bó chặt chẽ với nhau trong
bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thể hiện trong mọi
công việc cách mạng của Ðảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán
bộ, chiến sĩ Quân đội tất cả đều vì lợi ích quốc gia - dân tộc.
Trung thành với Đảng đã bao hàm cả nội dung hiếu
với dân, với lợi ích quốc gia, dân tộc; trung với nước, hiếu với dân cũng bao
hàm cả nội dung trung với Đảng. Đó là mối quan hệ biện chứng thống nhất nằm
trong thuộc tính bản chất của Quân đội ta, không thể tách rời.
Nhiệm vụ của quân đội là bảo vệ tổ quốc, bảo vệ
nhân dân, nhưng chỉ có quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam như Quân đội nhân dân Việt Nam thì mới
có thể làm tròn phận sự trung thành với Tổ quốc, với nhân dân theo đúng nghĩa
của nó và gắn bó chặt chẽ sự trung thành với Đảng, Nhà nước, chế độ, Tổ quốc và
nhân dân trong chỉnh thể thống nhất, không tách rời.
Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, lãnh
đạo Quân đội và Quân đội phục tùng sự lãnh đạo của Đảng là hai mệnh đề song
hành ngay từ khi mới thành lập đến nay suốt hơn bảy thập kỷ xây dựng, trưởng
thành và chiến thắng của Quân đội ta. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
khi mới ra đời đã là đội quân mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam,
gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, của nhân dân và dân tộc Việt
Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mục tiêu lý tưởng của Đảng, của giai cấp công
nhân, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, của dân tộc cũng là mục tiêu lý tưởng chiến
đấu của Quân đội ta. Hay nói cách khác, Quân đội ta chiến đấu là nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, của dân tộc và
nhân dân Việt Nam, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của cách mạng,
của dân tộc trong từng giai đoạn. Đó là sự biểu hiện sâu sắc bản chất giai cấp
công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội ta, một tổ chức quân sự
kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam là của dân tộc, của
nhân dân Việt Nam, đồng thời là của giai cấp công nhân Việt Nam, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Việc từ bỏ nội dung phẩm chất trung thành với Đảng, tách
vấn đề trung thành với Đảng và trung thành với nhân dân, với dân tộc là không
thể chấp nhận được vì nó không đúng với bản chất chính trị - xã hội của Quân
đội nhân dân Việt Nam. Đó là sự cố tình xuyên tạc, bóp méo sự lãnh đạo của Đảng
đối với Quân đội, cũng như thực tiễn mối quan hệ giữa Quân đội với Đảng, với
dân tộc và nhân dân, nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, chống
phá cách mạng Việt Nam. Luận điệu xuyên tạc đó không đánh lừa được ai, nhất
định sẽ bị phá sản.
D.BV
Văn hóa là gốc rễ, là cội nguồn làm nên sức mạnh
nội sinh và sức sống của mỗi dân tộc đồng thời để nhận diện giữa dân tộc này
với dân tộc khác. Quá trình phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập với thế giới
ngày càng sâu, rộng, bên cạnh việc tiếp thu những giá trị, tinh hoa văn hóa của
nhân loại, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức, nguy cơ không nhỏ.
Nếu chúng ta không sớm nhận diện, tỉnh táo và có biện pháp phòng ngừa từ xa thì
sẽ đứng trước thử thách hết sức khó khăn của các thế lực thù địch. Bởi vì, cuộc
“xâm lăng văn hóa” diễn ra từ từ, ngấm ngầm, dai dẳng, nhưng vô cùng tai hại.
Những năm gần đây nhiều giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta bị đảo lộn, nhiều hành vi phản văn hóa mới xuất
hiện đã và đang trở thành vật cản lớn đối với sự phát triển đất nước, ảnh hưởng
đến vận mệnh quốc gia, dân tộc. Những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do
cuộc “xâm lăng văn hóa” nhằm vào nước ta đang tấn công từ nhiều phía, từ nhiều
hình thức, con đường, biện pháp khác nhau với những thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm
độc. Các thế lực thù địch tìm mọi cách, lợi dụng sơ hở về chính sách, luật pháp
Việt Nam; lợi dụng những mặt trái của internet để truyền bá các tư tưởng ngoại
lai, các sản phẩm văn hóa, thông tin xấu độc vào nước ta; tiêm nhiễm những suy
nghĩ tiêu cực vào tâm hồn của giới trẻ, qua đó là dao động niềm tin, từng bước
thay đổi tâm lý, lối sống hành vi, đạo đức, làm cho giới trẻ bị cuốn vào lối
sống vị kỷ, thực dụng, sa vào chủ ngĩa cá nhân, ngày càng xa rời lý tưởng, lẽ
sống, niềm tin mà các thế hệ cha ông đã phải đổ bao xương máu, mồ hôi, công sức
mới vun đắp tạo dựng được.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII cũng đã chỉ
ra: “Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai,
trái với thuần phong mỹ tục...Tình trạng nhập khẩu, quản bá, tiếp thu dễ dãi,
thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống
văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”.
Trước thực tế hiện nay, chúng ta không thể coi
nhẹ, xem thường mà phải thường xuyên tích cực vun đắp, nâng cao sức đề kháng
văn hóa cho các cấp, các ngành và toàn xã hội; tăng cường khả năng phòng ngừa,
bảo vệ, chống lại các sản phẩm văn hóa, thông tin độc hại từ bên ngoài. Giữ
gìn, bảo vệ và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Do đó, có thể khẳng định rằng, việc huy động các cấp, các ngành và toàn xã
hội cùng chung tay góp sức bồi đắp, nâng cao sức đề kháng văn hóa cho dân tộc
chính là bảo đảm cho sức sống và sức mạnh văn hóa Việt Nam luôn được bảo tồn,
bền vững trong thời đại công nghệ hiện nay; bảo đảm cho những giá trị tinh hoa
của dân tộc không bị pha trộn, mất gốc hay đồng hóa trước các cuộc “xâm lăng
văn hóa” từ bên ngoài. Bảo đảm cho chúng ta sống trong hòa bình có môi trường
văn hóa tốt nhất để ổn định và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
A.V.B
Thế giới của chúng ta đã trải qua nhiều cuộc
cách mạng công nghiệp, tác động của các cuộc cách mạng công nghiệp là vô
cùng sâu rộng, nó không chỉ làm thay đổi đời sống con người mà còn dẫn tới sự
thay đổi toàn diện hình thái kinh tế – xã hội. Sau cách mạng công nghiệp
lần thứ nhất, giai cấp tư sản đã tích lũy đủ tài sản và quyền lực, dẫn tới
việc chủ nghĩa tư bản đã thắng thế chế độ phong kiến.
Sau cách mạng công nghiệp lần thứ hai, các nhà máy lớn sản xuất theo dây
chuyền đã thay thế các xưởng sản xuất nhỏ, dẫn tới việc chủ nghĩa tư bản
độc quyền đã thay thế chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, đồng thời
giai cấp công nhân và một số phong trào chính trị đi theo chủ nghĩa xã
hội đã hình thành. Cách mạng công nghiệp lần thứ ba dẫn tới sự
ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư hứa hẹn sẽ làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội của nhân loại thêm
một lần nữa. Mỗi cuộc cách mạng đã đem lại những sự phát triển vượt bậc
(mang tính chất đột phá) của nhân loại, tạo ra của cải vật chất và tinh thần sự
hưng thịnh của nhiều quốc gia. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang
có tác động mạnh mẽ sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Dưới danh xưng tự phong là những người thấu hiểu
chính trường, đi trước truyền thông chính thống để vén tấm màn bí mật trong
chốn thâm cung bí sử. Các thế lực thù địch, phản động đang tận dụng triệt để
thành tựu của cuộc cách mạng lần thứ tư (4.0) mang lại để chống phá cách mạng
Việt Nam. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã tăng cường các hoạt
động chống phá ta, trong đó chúng tập trung vào việc sử dụng mạng toàn cầu
world wide web (WWW), thư điện tử (email) và các trang thông tin điện tử, mạng
nội bộ, mạng xã hội (facebook, twitter, whatsapp, youtube, blog cá nhân) đặt ở
nước ngoài và các apps (ứng dụng) trên thiết bị thông minh để tuyên truyền các
quan điểm sai trái, thù địch chống phá nước ta. Như thời gian gần đây, một
số đối tượng có mục đích xấu đã có những bài viết xuyên tạc về đời tư, các mối
quan hệ và kể cả tình hình sức khỏe của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Chúng phê
phán chế độ xã hội chủ nghĩa, cổ súy cho “xã hội dân sự”. Cái cớ của “xã hội
dân sự” chính là tung hô những phần tử phản động chống lại chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước dưới chiêu bài bất đồng chính kiến. Việc đánh tráo
khái niệm giữa ý kiến phản biện được bảo lưu và các hoạt động chống phá đã được
các thế lực thù địch khoét sâu lợi dụng. Chúng ra sức kích động giới trí thức
vào cuộc để vu cáo Đảng và Nhà nước ta đàn áp những người bất đồng chính kiến,
kêu gọi phong trào đấu tranh đòi thả tự do cho “tù nhân lương tâm”. Khi thời cơ
chín muồi, các thế lực thù địch sẽ hình thành tổ chức chính trị đối lập tại
Việt Nam. Chúng đã sử dụng bộ lý thuyết “xã hội dân sự” để chỉ trích, vu khống
Đảng, Nhà nước ta, biến phản biện xã hội trở thành một quá trình không kiểm
soát được, âm mưu trở thành một hoạt động dưới dạng câu lạc bộ vô chính phủ.
Nếu chúng ta không tỉnh táo phát hiện và đấu tranh trực diện với luận điệu
trên, các tổ chức tiền thân của “xã hội dân sự” sẽ nhanh chóng tiến hành những
hoạt động “diễn biến hòa bình” theo kiểu xét lại lịch sử, chỉ trích lịch sử
cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Theo đó, tư tưởng chính trị của đảng viên và
nhân dân trở nên dao động, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng sẽ sụt giảm nghiêm trọng.
Vì vậy, chúng ta phải hết sức cảnh giác, chủ động đấu tranh nhận rõ bản chất
của tư tưởng phản động này, nhằm vô hiệu hóa quá trình can thiệp thô bạo từ bên
ngoài với những luận điệu sai trái, bịa đặt, nguy hiểm, khó dự báo.
Có thể khẳng định đó là chiêu thức thủ đoạn rất
nguy hiểm nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, khi chúng ta chuẩn bị tiến hành
Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Các
thế lực thù địch càng ra sức tập trung công kích, chống phá bằng nhiều thủ đoạn
nham hiểm và quyết liệt. Bản chất, mục đích của chúng không thay đổi, nhưng thủ
đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Dưới chiêu bài xưa cũ là ca ngợi nền
dân chủ phương Tây và dẫn chứng những mặt trái của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
ở nước ta, chúng kích động, thúc đẩy sự xuất hiện các tổ chức chính trị đối lập
nhằm hướng tới mục tiêu đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Về vấn đề này,
trước đây các thế lực thù địch không ngừng rêu rao sự sụp đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu; đồng thời, kêu gọi các phần tử cực đoan tập hợp lực
lượng, sẵn sàng cho ra đời một bộ lý thuyết mới, dẫn dụ thành công một số cuộc
cách mạng màu làm minh chứng cho một sự thay đổi. Luận điệu “món trứng ốp la
không thể không đập vỡ một số quả trứng” có vẻ như đã tác động đến tâm lý một
bộ phận mơ hồ, mất cảnh giác và a dua theo chúng. Nhưng chúng không ngờ rằng,
bản chất của các hoạt động đó đã đi ngược lại truyền thống, trái với nguyện vọng
và tình cảm của tuyệt đại đa số nhân dân. Sau thời gian dài chống phá không
hiệu quả, đất nước ta vẫn ngày càng phát triển mạnh mẽ, Đảng ta ngày càng giữ
vững bản chất, truyền thống cách mạng và vị thế của mình, các thế lực thù địch
đã thay đổi nội dung và hình thức chống phá mới. Chúng ra sức cổ súy cho một xã
hội mới với mô hình “độc lập về chính trị”. Về thủ đoạn, Chúng đánh vào tâm lý
của một số trí thức, văn nghệ sĩ có tư tưởng dao động hoặc có sự bất mãn về
thời cuộc; lợi dụng và cổ súy cho các tổ chức nhập nhèm, như: “Văn đoàn độc
lập”, “Tổ chức phóng viên không biên giới”, “Trung tâm Văn bút Việt Nam”,… được
đám “dân chủ” trong và ngoài nước tung hô như một thứ vũ khí lợi hại trong thời
kỳ mới. Điều dễ nhận thấy là, những nội dung này vẫn là cách họ chủ quan áp đặt
và chẳng có một cơ sở khoa học nào khả dĩ. Nhất là, khi chúng gắn mác cho một
số phần tử là “Nhà hoạt động chính trị”, hoặc “Nhà báo độc lập” để tung tin
rằng, ở Việt Nam người dân không được tự do tiếp cận thông tin, hoặc tình hình
tự do báo chí ở Việt Nam đang xuống dốc tệ hại.
Chúng còn lợi dụng công cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng của Đảng ta hiện nay để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Ở
tất cả các quốc gia với bất kỳ thể chế chính trị nào, nếu không dẹp bỏ được nạn
tham nhũng thì đều dẫn tới suy vong. Bài học từ lịch sử cho thấy, phòng, chống
tham nhũng là quyết sách chiến lược mang ý nghĩa tồn vong của chế độ ta. Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Kỷ luật một vài người để cứu
muôn người”. Và thực tế, từ sự cương quyết của Đảng ta trong việc xử lý các đại
án tham nhũng, nhiều vị lãnh đạo, trong đó có không ít vị lãnh đạo cao cấp đã
vướng vòng lao lý. Lòng tin của nhân dân với Đảng ngày một tăng cao; uy tín của
chế độ chính trị được củng cố. Tuy nhiên, các thế lực thù địch cũng căn cứ vào
đây để tăng cường xuyên tạc, chống phá. Chúng cho rằng, nếu một xã hội độc đảng
cầm quyền thì sẽ thủ tiêu đấu tranh; Đảng, Nhà nước ta đang ở thế “lưỡng nan
đối nghịch”, với hàm ý chống tham nhũng nhưng ngại thay đổi thể chế chính trị,...
Theo chúng, “muốn chống tham nhũng thì phải thay đổi lại thiết chế và xã hội để
làm sao cho dân chủ hơn”; Tựu trung lại vẫn là những luận điệu “bình mới rượu
cũ” với thủ đoạn thâm độc hơn. Các thế lực thù địch đang xoáy sâu vào các đại
án tham nhũng để qua đó nói xấu, bôi nhọ danh dự của cán bộ, đảng viên, cũng
như kích động dư luận lung lạc niềm tin vào sự phát triển của đất nước. Trước
thềm đại hội Đảng, chúng tung tin đồn thổi nhiều đồng chí lãnh đạo các cấp với
những nghi án tham nhũng, sân sau, v.v. Chúng ví von hành động bỉ ổi này như
một mũi tên trúng hai con nhạn: (1). Làm suy giảm uy tín cá nhân lãnh đạo, gây
mất đoàn kết nội bộ; (2). Làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang dư luận, để
cho người dân nhìn vào đâu cũng thấy tham nhũng. Từ những “đại án” tham nhũng,
các thế lực thù địch chớp ngay cơ hội, tăng cường thông tin trên mạng xã hội,
ra sức công kích hòng làm giảm sút uy tín của Đảng, lung lạc niềm tin của nhân
dân đối với chế độ và hệ thống chính trị. xuyên tạc, bôi nhọ danh dự, uy tín cán
bộ, nhất là cán bộ có khả năng là ứng viên cho cấp ủy khóa mới của các cấp.
Chúng ta cần nhận thấy, muốn chống tham nhũng
triệt để cần phải có nền pháp trị nghiêm minh, không một ai ở ngoài và ở trên
luật cả. Thực tế trong thời gian gần đây, công tác phòng, chống tham nhũng của
Đảng ta đã đạt kết quả toàn diện; nhiều bị can, trong đó có nhiều trường hợp là
cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý tiếp tục được điều tra, khởi tố.
Qua đó, đã khẳng định quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể
người đó là ai” trong chống tham nhũng. Tinh thần chỉ đạo quyết liệt của người
đứng đầu hệ thống chính trị đã cho thấy quyết tâm của toàn Đảng ta đang ra sức
chỉnh đốn, làm trong sạch nội bộ. Tuy nhiên, các thế lực thù địch thì luôn rình
rập để thổi bùng lên làn sóng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, không loại trừ
trong thời gian diễn ra Đại hội XIII của Đảng, chúng tung tin thất thiệt về hậu
xử lý các vụ đại án, hoặc tiếp tục chiêu bài phủ nhận kết quả đấu tranh phòng,
chống tham nhũng của Đảng ta, gây ra các luồng tư tưởng khác biệt không ngoài
mục đích hạ thấp vai trò, tiến tới mục tiêu đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập. Đây thực chất là nội dung chống phá xuyên suốt của chiến lược “Diễn biến
hòa bình”. Trước vận mệnh quốc gia - dân tộc, sự tồn vong của chế độ và đặc
biệt là bảo vệ an toàn, thành công của Đại hội XIII của Đảng, chúng ta phải
tuyệt đối đề cao cảnh giác, đấu tranh không khoan nhượng với các phần tử cơ
hội, quyết tâm giữ vững an ninh chính trị, an toàn cho Đại hội và bảo vệ danh dự
cho Đảng ta.
Như vậy, trước tác động của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (4.0), chúng ta cần nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh, phòng, chống các quan điểm sai
trái, thù địch, chủ động phát hiện sớm và kịp thời xử lý các tình huống nảy
sinh, bảo đảm cho sự thành công Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam./.
B.M.N
Kênh tiếng Việt của Đài RFA vừa đăng
bài: “Vấn nạn xã hội Việt Nam dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản”.
Bài viết đã liệt kê thông tin về tình hình xã hội ở nước ta, cụ thể là một số
vụ việc vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội diễn ra trong thời gian gần đây. Đồng
thời, đăng tải ý kiến, đánh giá, nhận định của một số phần tử (Mạc Văn Trang,
Nguyễn Đình Cống, Lê Nguyên...), cho rằng, nguyên nhân của những vụ việc vi
phạm pháp luật, đạo đức xã hội nêu trên là do hậu quả của lãnh đạo độc Đảng. Từ
đó, nhận định bừa rằng “…, nếu tiếp tục theo kiểu thống trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam hiện nay thì xã hội Việt Nam ngày càng lụn bại. Tương lai của dân tộc,
đất nước này u ám lắm,…”. Đây là những phát ngôn hàm hồ, lộng ngôn cần bị vạch
mặt, lên án.
Thứ nhất, một số vụ việc vi phạm pháp luật, đạo
đức xã hội xảy ra thời gian gần đây mà bài viết liệt kê chỉ là vụ việc mang
tính nhỏ lẻ, bột phát, cá biệt chứ không phản ánh toàn diện về thực trạng xã
hội Việt Nam với gần một trăm triệu dân. Trong thời buổi bùng nổ công nghệ
thông tin, phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội như hiện nay thì thông tin về
những vụ việc vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội đến với công chúng nhanh hơn,
nhiều thông tin hơn cũng là điều dễ hiểu. Và thực tế này không chỉ diễn ra ở
Việt Nam mà ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, kể cả ở những nước phát triển
đều có xảy ra. Cho nên, tình hình đó ở Việt Nam không phải là ngoại lệ. Chỉ có
những kẻ bất mãn, tiêu cực, trở cờ, phản Đảng, chuyên săm soi, “bới lông tìm
vết” thì mới lấy những vụ việc vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội nhỏ lẻ, cá
biệt, lấy đó là “miếng mồi” ngon để nói xấu, đả kích xã hội, rồi lộng ngôn
xuyên tạc, chống phá chế độ khi cho rằng đó là hậu quả của sự lãnh đạo độc Đảng
mà thôi.
Thứ hai, thực tế xã hội Việt Nam từ khi có Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo đã hoàn toàn đổi thay: nhân dân ta từ thân
phận nô lệ đã được độc lập, tự do, con người được phát triển toàn diện. Bộ mặt
đất nước, kinh tế - xã hội ngày càng đổi thay, phát triển, cuộc sống nhân dân
ngày càng đầy đủ, ấm no, hạnh phúc; vị thế, uy tín của đất nước trên trường
quốc tế ngày càng được khẳng định, nâng cao. Sự thật đó đã quá rõ ràng và không
thể phủ nhận. Thế nên nhận định rằng: “Xã hội Việt Nam ngày càng lụn bại. Tương
lai của dân tộc, đất nước này u ám lắm,…” chỉ là ý kiến chủ quan, không có cơ
sở. Liên hợp quốc vừa tổ chức tọa đàm trực tuyến với chủ đề: “Việt Nam - ngôi
sao đang lên”, nhiều nước, tổ chức quốc tế đã đánh giá cao về Việt Nam. Đó là
kết quả của phòng, chống dịch Covid-19 giai đoạn 2, là kết quả phát triển kinh
tế, thu hút đầu tư nước ngoài và xuất nhập khẩu, v.v.
Thứ ba, bản thân Mạc Văn Trang, Nguyễn Đình Cống
là những người được sinh ra, dung dưỡng, trưởng thành, được là “ông nọ, bà kia”
là nhờ chế độ xã hội này. Thế nhưng khi về hưu, họ đã không còn đủ bản lĩnh để
đứng vững trước những tác động xấu dẫn đến thoái hóa, biến chất, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”, sinh ra bất mãn, tiêu cực với chế độ, trở cờ, phản
Đảng, “ăn cháo, đá bát”. Vậy nên, các ông nên bớt sân si, hãy sống vui vẻ cùng
con cháu những tháng năm cuối đời, đừng để dư luận xã hội lên án, nguyền rủa./.
D.M
Sau 4 ngày xét xử vụ án “giết người” và “chống
người thi hành công vụ” xảy tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Tòa án
Nhân dân TP Hà Nội chính thức ra phán quyết với 29 bị cáo. Nói lời sau cùng tại
phiên xét xử các bị cáo bày tỏ sự hối hận, gửi lời xin lỗi đến gia đình các
Cảnh sát đã hy sinh và mong được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
Thời gian qua một số một số trang mạng xã hội đã
đăng tải nhiều bài viết xuyên tạc về tính chất của vụ việc; đặc biệt là các tin
bài phản đối bản án, xuyên tạc cho rằng chính quyền coi người dân “như kẻ thù”,
vu cáo tào án nhân dân TP Hà Nội “có nhiều sai phạm”; bôi nhọ, nói xấu báo đài
Việt Nam, kích động gây lòng hận thù dân tộc, kêu gọi người dân và các tổ chức
nhân quyền quốc tế lên tiếng, can thiệp, “bảo vệ” các bị cáo trong vụ án; điển
hình như: đối tượng Đoàn Bảo Châu tán phát bài “man rợ, bất nhân”, trang Blog
Tiếng Dân tán phát bài “phiên xử vụ án Đồng Tâm: Ngày tuyên án”, đối tượng lấy
tên là Báo Sạch tán phát bài “cái kết bi thảm nhất tại Đồng Tâm”, đối tượng
Nguyễn Đình Trọng tán phát bài “bản án thể hiện đúng bản chất”…
Họ cho rằng sự việc xảy ra rạng sáng 09/01/2020
là sự “đàn áp” của chính quyền đối với những người gọi là “nông dân”, rồi từ đó
kêu gọi các tổ chức quốc tế tham gia điều tra, can thiệp, tác động... hòng
chính trị hóa vụ án hình sự này nói riêng và các vụ án hình sự ở nước ta nói
chung. Họ hy vọng với sự tham gia, can thiệp, tác động của một số tổ chức quốc
tế tới chính quyền của một số nước thì có thể sẽ làm thay đổi hệ thống pháp
luật và nền tư pháp, dẫn tới sự thay đổi về thể chế chính trị của Việt Nam.
Theo cứ liệu của cơ quan chức năng vụ án xảy ra
ở xã Đồng Tâm đã thấy rõ dấu hiệu trục lợi trái pháp luật của một số người
trong “tổ đồng thuận”, họ cứ nghĩ rằng, nếu “đấu tranh” chiếm được đất quốc
phòng ở Đồng Sênh thì có thể tự chia nhau để hưởng và họ đã cố tình hành động
theo suy nghĩ ấy. Khi vụ án xảy ra, sự thật đã rõ mười mươi, nhưng một số đối
tượng thuộc loại “cố đấm ăn xôi” vẫn cứ cố tình tập hợp những cứ liệu rời rạc,
rồi chắp ghép, ngụy tạo ra những bản tin lòng vòng để đánh lừa dư luận.
Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền
nên có toàn quyền xử lý các vấn đề có tính nội bộ của mình thông qua hệ thống
pháp luật đã được toàn dân thừa nhận và phù hợp thông lệ quốc tế. Bất cứ hành
vi xuyên tạc của thế lực thù địch và cơ hội chính trị, hòng làm chuyển hóa hệ
thống pháp luật, nền tư pháp và thể chế chính trị ở Việt Nam, đều là những hành
động hão huyền, phi thực tế và không thể lừa phỉnh được ai./
Trong thời gian qua các thế lực phản động đã lợi
dụng các phương tiện truyền thông, mạng internet để liên lạc, truyền bá, kích
động tư tưởng dân tộc hẹp hòi; chia rẽ dân tộc đa số với dân tộc thiểu số và
giữa các dân tộc thiểu số với nhau, giữa đồng bào theo tôn giáo với không theo
tôn giáo và theo các tôn giáo khác nhau, hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết
toàn dân tộc đang được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng.
Không những thế, chúng còn kích động các dân tộc
thiểu số, tín đồ, chức sắc các tôn giáo chống lại chính sách dân tộc, tôn giáo
của Đảng, Nhà nước, gây mất ổn định chính trị – xã hội, nhất là vùng dân tộc,
tôn giáo.
Đó là những thủ đoạn mà các thế lực thù đich,
phản động đang sử dụng nó cực kỳ nguy hiểm và một bộ phận quần chúng nhân dân
đang bị các đối tượng xấu lôi kéo vào các hoạt động phạm pháp đó.
Để đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn đen tối của
chúng, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân ngoài việc ra sức đẩy mạnh lao động
sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần; đồng thời nêu cao ý thức cảnh
giác, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, đồng thuận xã hội; xây dựng và củng
cố niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là cơ sở vững
chắc nhất để xây dựng thế trận lòng dân; không để sơ hở để các thế lực thù địch,
phản động lợi dụng sai sót, lòng tốt của người dân hoặc sự thiếu thông tin của
một bộ phận quần chúng để kích động lòng hận thù dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân, chia rẽ các tôn giáo, chia rẽ Đảng với Nhà nước, nhân dân.
Chúng ta cần vạch mặt, lên án và xử lý nghiêm
minh, đúng pháp luật những kẻ chống phá chế độ, phá hoại đại đoàn kết dân tộc.
Có như vậy mới bảo đảm được môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước phát
triển./.
F.M
Văn hóa là gốc rễ, là cội nguồn làm nên sức mạnh
nội sinh và sức sống của mỗi dân tộc đồng thời để nhận diện giữa dân tộc này
với dân tộc khác. Quá trình phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập với thế giới
ngày càng sâu, rộng, bên cạnh việc tiếp thu những giá trị, tinh hoa văn hóa của
nhân loại, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức, nguy cơ không nhỏ.
Nếu chúng ta không sớm nhận diện, tỉnh táo và có biện pháp phòng ngừa từ xa thì
sẽ đứng trước thử thách hết sức khó khăn của các thế lực thù địch. Bởi vì, cuộc
“xâm lăng văn hóa” diễn ra từ từ, ngấm ngầm, dai dẳng, nhưng vô cùng tai hại.
Những năm gần đây nhiều giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta bị đảo lộn, nhiều hành vi phản văn hóa mới xuất
hiện đã và đang trở thành vật cản lớn đối với sự phát triển đất nước, ảnh hưởng
đến vận mệnh quốc gia, dân tộc. Những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do
cuộc “xâm lăng văn hóa” nhằm vào nước ta đang tấn công từ nhiều phía, từ nhiều
hình thức, con đường, biện pháp khác nhau với những thủ đoạn hết sức tinh vi,
thâm độc. Các thế lực thù địch tìm mọi cách, lợi dụng sơ hở về chính sách, luật
pháp Việt Nam; lợi dụng những mặt trái của internet để truyền bá các tư tưởng
ngoại lai, các sản phẩm văn hóa, thông tin xấu độc vào nước ta; tiêm nhiễm
những suy nghĩ tiêu cực vào tâm hồn của giới trẻ, qua đó là dao động niềm tin,
từng bước thay đổi tâm lý, lối sống hành vi, đạo đức, làm cho giới trẻ bị cuốn
vào lối sống vị kỷ, thực dụng, sa vào chủ ngĩa cá nhân, ngày càng xa rời lý
tưởng, lẽ sống, niềm tin mà các thế hệ cha ông đã phải đổ bao xương máu, mồ
hôi, công sức mới vun đắp tạo dựng được.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII cũng đã chỉ
ra: “Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai,
trái với thuần phong mỹ tục...Tình trạng nhập khẩu, quản bá, tiếp thu dễ dãi,
thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống
văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”.
Trước thực tế hiện nay, chúng ta không thể coi
nhẹ, xem thường mà phải thường xuyên tích cực vun đắp, nâng cao sức đề kháng
văn hóa cho các cấp, các ngành và toàn xã hội; tăng cường khả năng phòng ngừa,
bảo vệ, chống lại các sản phẩm văn hóa, thông tin độc hại từ bên ngoài. Giữ
gìn, bảo vệ và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Đo đó, có thể khẳn định rằng, việc huy động các cấp, các ngành và toàn xã
hội cùng chung tay góp sức bồi đắp, nâng cao sức đề kháng văn hóa cho dân tộc
chính là bảo đảm cho sức sống và sức mạnh văn hóa Việt Nam luôn được bảo tồn,
bền vững trong thời đại công nghệ hiện nay; bảo đảm cho những giá trị tinh hoa
của dân tộc không bị pha trộn, mất gốc hay đồng hóa trước các cuộc “xâm lăng
văn hóa” từ bên ngoài. Bảo đảm cho chúng ta sống trong hòa bình có môi trường văn
hóa tốt nhất để ổn định và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những ngày qua, không chỉ có cư dân mạng, hầu
hết người Việt Nam máu đỏ da vàng đều phẫn nộ trước thái độ của bệnh nhân Covid
số 17 Nguyễn Hồng Nhung (ở phố Trúc Bạch, quận Ba Đình, Hà Nội).
Trong đại dịch Covid-19, Hà Nội phải căng mình
chống dịch, trong đó có nguyên nhân từ sự gian dối của cô gái này. Đất nước đã
tận tình chữa trị cho cô ta khỏi bệnh, hoàn toàn miễn phí. Thế mà thay vì biết
ơn, mới đây cô ta lên báo nước ngoài bôi xấu Tổ quốc, đồng bào. Thật là đứa con
lạc loài!
Trả lời phỏng vấn của tờ The New Yorker (Mỹ),
bệnh nhân số 17 nói rằng, vì cô ta giàu có nên bị mọi người căm ghét, hắt hủi.
Bệnh nhân số 17 định thông qua tờ The New Yorker để biến mình từ kẻ dối trá
thành nạn nhân đáng thương. Ngoài việc khoe mẽ giàu có, bệnh nhân số 17 còn bịa
chuyện bị cộng đồng mạng chỉ trích khiến cô ta tổn thương chỉ vì mắc Covid-19.
Với việc gian dối ngay từ khi nhập cảnh về Việt Nam làm lây lan dịch bệnh, việc
cô ta thêu dệt, bịa chuyện với báo Mỹ cũng là dễ hiểu.
Chắc chắn là chưa có bất cứ người Việt Nam nào
quên sự việc liên quan đến bệnh nhân số 17 Nguyễn Hồng Nhung có hai cuốn hộ
chiếu quốc tịch Anh và Việt Nam. Ở làn sóng Covid đầu tiên, sau khi xuất cảnh
sang Anh (dùng hộ chiếu Việt Nam), Nguyễn Hồng Nhung đã đi tứ xứ như Pháp, Ý...
(dùng hộ chiếu Anh). Tháng 3, khi quay trở về, cô ta lại dùng hộ chiếu Việt Nam
để nhập cảnh, không khai báo đã qua vùng dịch, nên cơ quan chức năng không phát
hiện được để cách ly.
Từ đó cô ta đã khiến nhiều người bị lây nhiễm
Covid-19. Và cũng chính từ sự thiếu trung thực, khai báo y tế gian dối của bệnh
nhân số 17 mà cả một đoạn phố Trúc Bạch bị phong tỏa, nhiều y bác sĩ của BV
Hồng Ngọc phải cách ly. Vào cái đêm 6/3 định mệnh ấy, khi Nguyễn Hồng Nhung
được xác định dương tính với SARS-CoV-2, cả Hà Nội, từ người dân đến chính
quyền, ngành y tế... không thể chợp mắt.
Hành vi của Nguyễn Hồng Nhung có dấu hiệu phạm
vào tội cố tình làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (ở đây là đại dịch
Covid-19), quy định tại Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi năm 2017. Tại
Điểm a, Khoản 3, Điều 240 quy định: Người nào có hành vi làm lây lan dịch bệnh
nguy hiểm cho người, khiến Thủ tướng Chính phủ phải công bố dịch, thì bị phạt
tù 10-12 năm. Song, vào thời điểm đó, với chính sách nhân đạo của Nhà nước,
bệnh nhân số 17 đã không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Không chỉ thoát án hình sự, ngược lại bệnh nhân
này còn được các y bác sĩ tận tình chăm sóc, chữa trị. Các khoản tiền khám chữa
bệnh, ăn ở của cô ta đều được Nhà nước đài thọ hoàn toàn. Vậy nhưng từ khi xuất
viện, Nguyễn Hồng Nhung chưa một lần gửi lời xin lỗi tới người dân cả nước,
cũng như những người Hà Nội đã mất ăn, mất ngủ vì cô ta. Nguyễn Hồng Nhung cũng
chưa từng gửi lời cảm ơn tới đội ngũ thày thuốc đã hết mình điều trị cho cô ta,
trái lại còn vu vạ cho các bác sĩ làm lộ lọt thông tin cá nhân của mình.
Tất nhiên, vào thời điểm đó, Nguyễn Hồng Nhung
đã phải nhận một “rổ gạch đá” của cư dân mạng, nhưng không phải vì cô ta giàu,
càng không phải vì cô ta mắc Covid-19, mà vì cô ta gian dối không trung thực
khai báo y tế, dẫn đến nguy cơ bùng phát đại dịch ở diện rộng. Song, cả xã hội
vẫn chấp nhận thắt lưng buộc bụng để Nhà nước có tiền chữa trị, tài trợ ăn ở
miễn phí cho những người bệnh như cô ta. Vậy mà giờ đây, khi đã được đất mẹ
chữa lành vết thương, có thể dang rộng cánh bay xa, cô ta quay lại bôi xấu Tổ
quốc.
Đáng giận là khi trả lời tờ The New Yorker,
Nguyễn Hồng Nhung thao thao bất tuyệt nói xấu quê hương, đất nước, mà giấu biệt
sự gian dối của bản thân đã khiến cả xã hội suýt nữa lâm nguy. Một thái độ vô
ơn. Việc cô ta giàu hay nghèo thì có liên quan gì đến mọi người mà phải khoe?
Giàu như thế nhưng cô ta đã ủng hộ quỹ phòng, chống đại dịch Covid-19 đồng nào
chưa?
Để kết thúc bài viết này, xin được trích dẫn ý
kiến của một cư dân mạng đã comment trên chính trang facebook của The New
Yorker: “Thật nực cười vì cô ấy cho rằng mình bị ganh tị vì sự giàu có. Không
ai ganh tị với cô ấy cả, mọi người chỉ đang tức giận vì sự dối trá của của cô
ấy. Không chỉ một, cô gái này đã nói dối hai lần, một lần khi nhập cảnh vào
Việt Nam và giờ đây là trên báo chí của Mỹ. Cô ấy thật tệ và không xứng đáng
quay trở lại Việt Nam...”.
H.M
Những thông tin nhân sự cấp cao trong Đại hội
XIII của Đảng sắp tới, vấn đề chống tham nhũng, tranh chấp trên Biển Đông...
luôn được các thế lực phản động triệt để lợi dụng để xuyên tạc, bẻ cong, bóp
méo.
“Thị trường” không gian mạng có lẽ chưa bao giờ
lại sôi nổi như bây giờ. Các trang blog, website đưa lên Zalo, facebook, các
diễn đàn… đua nhau mọc lên như nấm sau mưa. Các thế lực thù địch, phản động,
phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng,
Nhà nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và thâm độc, bọn chúng đưa
những tin thất thiệt, thật giả lẫn lộn, tạo nên tâm lý hoang mang, nghi ngờ,
phân tâm trong xã hội. Những thông tin xấu độc trên không gian mạng luôn tạo cơ
hội cho các thế lực thù địch tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá, gây mất ổn
định chính trị, kinh tế - xã hội, bóp méo nền văn hóa ở nước ta.
Những chiêu trò tuyên truyền, xuyên tạc, kích
động chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ
hội chính trị diễn ra ở nhiều nơi, nhiều thời gian và không gian khác nhau. Đặc
biệt, trong thời gian vừa qua các tổ chức đảng chuẩn bị và tiến hành đại hội ở
cấp mình, theo Chỉ thị số 35-CT/TƯ ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị “Về đại hội
đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, thì
chúng tung tin giả, xuyên tạc, kích động, xuyên tạc sự thật, cho rằng "các
phe cánh trong Đảng đang thanh trừng lẫn nhau", "trong Đảng không có
dân chủ nên cần phải đa đảng…". Họ lợi dụng tâm lý cực đoan, định kiến của
một bộ phận dân chúng để hằng ngày tán phát lên mạng nhiều thông tin sai sự
thật; bình luận, nhìn nhận vấn đề có thật một cách méo mó, theo hướng có lợi
cho mục đích, mưu đồ của chúng. Thủ đoạn mà họ thông tin thường là lợi dụng
những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội rồi
thổi phồng, cắt ghép theo ý đồ có sẵn; lấy hiện tượng quy kết thành bản chất,
thật giả lẫn lộn, xuyên tạc sự thật vào những sự kiện, những diễn biến, những
động thái có thật, bằng những kỹ xảo tinh vi của công nghệ thông tin trong thời
đại công nghệ 4.0, tạo dựng chuyện bằng cách lắp ghép, trích dẫn, cắt xén các
lời phát ngôn, bài viết, hình ảnh… gây nhiễu loạn thông tin, làm cho người đọc,
xem thiếu kinh nghiệm dễ lầm tưởng, khó phân biệt, nhận diện thật-giả,
đúng-sai. Từ đó, đánh giá không đúng bản chất sự kiện, nhân vật. Hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch suy cho cùng là nhằm chia rẽ Đảng với nhân
dân, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội.
Để tin xấu, độc không còn đất sống, trước hết
mỗi cán bộ, giảng viên, học viên và nhân viên trong toàn Học viện cần nhận diện
rõ thông tin xấu, độc, ngăn chặn sự tác động của nó vào đời sống chính trị,
tinh thần của cộng đồng xã hội. Cần cảnh giác cao độ với tính nguy hiểm mặt
trái của mạng xã hội. Bởi vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng với tinh thần “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ” ở tất cả
cơ quan, tổ chức, đơn vị. Sự chống phá của các thế lực thù địch sẽ không có đất
sống nếu Đảng, Nhà nước và nhân dân ta có sức đề kháng tốt. Người dân sẽ không
tin khi biết rõ thông tin và hiểu được âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch,
cơ hội chính trị. Còn nếu chúng ta không định hướng tốt, để tâm lý, tư tưởng
trong cộng đồng xã hội bị lung lạc, thì sự chống phá của các thế lực thù địch
sẽ càng có thêm cơ hội.
Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao hiệu quả tuyên
truyền, Đảng và Nhà nước cần chủ động công khai, minh bạch thông tin những chủ
trương chính sách trong giải quyết các vấn đề, nhất là những vấn đề có tính
nhạy cảm. Các phương tiện tuyên truyền của Đảng, Nhà nước cần chủ động, kịp
thời, phản ánh rõ các sự kiện, sự việc theo hướng tích cực, đúng sự thật. Tuyệt
đối không để công chúng hoài nghi về công tác truyền thông và cũng không để
những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc tự tung, tự tác mà không bị phản bác.
Thông tin càng cởi mở, việc kết nối thông tin trong xã hội tới mọi người dân
luôn thông suốt, chúng ta càng có điều kiện để phòng, chống tin giả, tin xấu
độc, bảo đảm thông tin chính thống giữ vững vai trò làm chủ, định hướng dư
luận.
B.M
Vào tháng 2 vừa rồi, thế giới phải đối diện với
một thảm họa dịch bệnh vô cùng tồi tệ và đừng quên rằng, đến nay, dịch bệnh vẫn
ám ảnh thế giới bên ngoài. Hồi ấy tại phương Tây, số lượng người nhiễm và thiệt
mạng liên tục tăng cao, tình hình lây nhiễm dịch bệnh tồi tệ. Lúc ấy, Việt Nam
phải đối diện với hai câu hỏi hóc búa: Một là tạm ngừng nhập cảnh với toàn bộ
các chuyến bay vào Việt Nam. Hai là kiểm soát luồng người nhập cảnh dựa trên sự
khai báo thành khẩn về lịch trình di chuyển của họ tại các vùng có dịch.
Tuy nhiên, có một người, hay nói thẳng ra bệnh
nhân số 17, bất chấp quy định phòng dịch được đưa ra, khai báo không trung
thực, che giấu lịch trình di chuyển, không đến cơ quan chức năng để kiểm tra y
tế... Chính vì việc vô trách nhiệm với bản thân và xã hội, bệnh nhân số 17 này
đã lây bệnh cho nhiều người khác, trong đó có người thân của bệnh nhân số 17
rơi vào cảnh “thập tử nhất sinh”, khiến hàng chục triệu người Việt lo lắng, lao
đao, mất ăn mất ngủ.
Câu chuyện đáng nhẽ đã dừng lại từ lâu, nhưng
mới đây, tờ The New Yorker - một tạp chí chuyên bình luận chính trị, xã hội,
phê phán hiện thực khá nổi tiếng tại Mỹ, đã lấy trường hợp của bệnh nhân số 17
để bàn về sự lên án trên không gian mạng.
Điều bất hợp lý đầu tiên mà tờ này phản ánh đó
việc “tẩy trắng” trường hợp BN17 từ một người thiếu trung thực trong việc khai
báo lịch trình di chuyển, cung cấp thông tin gian lận thành một “nạn nhân vô
tình” mắc bệnh. Tờ này đưa ra thông tin về việc người bạn đi cùng BN17 cũng mắc
bệnh trước đó, nhưng tờ này cho rằng những thông tin này không cần thiết phải
đưa ra với cơ quan chức năng tại Việt Nam. The New Yorker cho rằng tại phương
Tây, các thông tin này được bảo mật và “không ai ngoài gia đình và bạn bè của
họ được phép biết rằng họ bị bệnh”. The New Yorker cần phải biết rằng, Việt Nam
có luật pháp của Việt Nam, phương Tây có luật pháp của phương Tây, không thể áp
dụng những quy định của phương Tây vào Việt Nam. Với lại, mỗi ngày có cả vài ngàn
người nhiễm, nếu đưa ra hết lịch trình của từng người thì độ dài bài báo phải
dài tương đương một tập sách Harry Potter. Vậy thì đưa ra làm gì nữa? Thời điểm
“vàng” khống chế dịch bệnh đã qua rồi.
Quy định phòng chống dịch thì như hạch mà lại cứ
tự coi là kiểu mẫu, đòi áp quy định nơi chống dịch kém vào nơi chống dịch tốt
hơn, bắt ép các các quốc gia khác phải tuân theo là thế nào?
Ngoài ra, tại sao BN17 và tờ này không đặt ra
giả thuyết rằng, nếu BN17 khai báo thông tin trung thực, báo cáo đúng lịch trình
di chuyển, chấp nhận cách ly ngay từ đầu thì liệu có ai lên án hay không? Có ai
đào bới thông tin cá nhân hay không? Hãy chú ý rằng, với các trường hợp mắc
bệnh từ nước ngoài về, cơ quan chức năng Việt Nam sẽ chỉ công khai một số thông
tin cơ bản như từ quốc gia nào về, chuyến bay số hiệu bao nhiêu, quê quán, độ
tuổi và kèm theo đó là dòng chữ “đã cách ly sau khi nhập cảnh”.
Ngoài ra, trong hơn 1000 trường hợp nhiễm bệnh
đã được ghi nhận đến nay, có bao nhiêu bệnh nhân bị lên án? Có thể kể thêm
trường hợp BN178, nhưng cũng như BN17, người này bị lên án do khai báo không
trực thực, gây khó rễ cơ quan chức năng.
Tiếp theo nữa, tờ The New Yorker này tiếp tục vu
cáo rằng chính quyền Việt Nam trút giận lên BN17 vì BN17 phá hỏng kế hoạch
“tuyên bố hết dịch”. Đến nay, chính quyền Việt Nam chưa từng có bất cứ tuyên bố
thắng dịch nào, vậy mà một tờ báo tờ tận đâu, biết rõ rằng một kế hoạch tuyên
bố chống dịch sắp được được ra. Tờ này còn thông tin thêm rằng, chính quyền
Việt Nam đã lan truyền những thông tin gây sợ hãi đến người dân, bắt những
người dân Hà Nội nói chung và khu phố mà BN17 thực hiện giãn cách xã hội, cấm không
được đi ra khỏi nhà. Đến cuộc họp khẩn cấp giữa đêm nhằm mục đích truyền tải
thông tin đến người dân, bàn các biện pháp chống dịch ứng phó của cơ quan chức
năng cũng bị tờ này “bôi đen” thành một buổi họp tấn công BN17.
Và tờ này, cùng với Daily Mail, sử dụng cụm từ
“như nhà tù” để nói về một bệnh viện phục vụ người nước ngoài cách ly tại Việt
Nam.
Điều đáng khinh nhất trong bài viết của The New
Yorker là việc chị gái của BN17 cho rằng những người chỉ trích em gái cô là
những người nghèo, ở giai cấp thấp vì những người chỉ trích không có nhiều đặc
quyền, không được đi du lịch nước ngoài như chị em cô.
Vậy, xin liên hệ đến trường hợp của BN32, vốn là
con gái của chủ tịch tập đoàn nổi tiếng ở Việt Nam, có ai chỉ trích BN32 hay
không? Không hề. Thậm chí, BN32 còn được gửi những lời nhắn, lời chúc mong sớm
khỏi bệnh. Vì sao? Vì BN32 di chuyển về Việt Nam chữa bệnh bằng máy bay riêng,
tuân thủ triệt để các quy định phòng chống dịch bệnh của Việt Nam. Sau khi khỏi
bệnh, bệnh nhân này còn gửi lời cám ơn đến y bác sĩ Việt Nam kèm theo những món
quà từ thiện góp sức vào công cuộc chống dịch. Cũng là những người giàu có,
nhưng cách hành xử khác nhau, trách nhiệm với xã hội cũng khác, chứ đừng nghĩ
rằng cầm hộ chiếu Anh Quốc rồi thì có thể vứt bỏ nguồn gốc Việt Nam, khinh bỉ
đồng bào trong nước.
Hay như trường hợp bệnh nhân phi công - người mà
tưởng như sẽ bị tử thần kéo đi, nhưng vẫn được các bác sĩ Việt Nam cứu sống. Có
ai kêu ca rằng chữa trị cho bệnh nhân phi công tốn kém không? Có ai phê phán
việc “chày cối” cứu chữa người này không? Thực ra là có, nhưng vô cùng ít, chỉ
có lũ tự nhục mới làm vậy, còn những người Việt Nam chân chính khác thì không.
Cần phải nhớ rằng, chính Việt Nam chứ không phải
là Anh Quốc, mới là nơi đùm bọc, che chở và cứu giúp. Hãy nhìn cách mà phương
Tây cứu chữa người chị của BN17, nói đâu xa, ngay trong The New Yorker đã đề
cập, đó là nhập viện trong một tuần, sau đó trở về nhà, khỏi bệnh tại nhà. Còn
tại Việt Nam, BN17 được ở trong viện gần 3 tuần đồng hồ cho đến khi xác nhận âm
tính 3 lần. Vậy mà khi nói về y tế phương Tây, người chị nói rằng: “rất biết
ơn”, còn nói về Việt Nam, thì lại toàn là những lời trách móc.
Sau tất cả, những gì mà chúng nhận được là gì?
Những lời đồn đoán thất thiệt từ chính người mà chúng ta đã cứu chữa, người này
còn bỏ qua tất cả những cáo buộc vô căn cứ của các tờ báo nước ngoài nhắm vào
Việt Nam. Thậm chí hùa theo những điều đó, đóng vai người bị hại, tự cho rằng
bản thân “thượng đẳng” hơn và rồi chỉ trích ngược lại đồng bào trong nước. Rồi
những người nước ngoài đọc được bài báo, họ sẽ nghĩ gì về Việt Nam?
Có thể dùng tiền để mua truyền thông phương Tây,
nhưng không thể mua được dư luận trong nước, đừng tưởng có tiền thì mua cái
đếch gì cũng được. Hơn hết, đừng dùng tiền để viết bài bôi đen Tổ Quốc.
R.M