Đưc Hung
Ngay từ khi chủ nghĩa xã
hội còn là bóng ma ở châu Âu nó đã phải hứng chịu sự công kích, xuyên tạc của
các lý luận gia tư sản và các thế lực thù địch. Từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch càng ra sức tăng cường chống
phá chủ nghĩa C. Mác, trong đó có việc cố tình phủ nhận giá trị cách mạng và
khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Vậy phải chăng học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác đã lỗi thời lạc hậu, hay chính những luận
điệu phủ nhận nó lỗi thời lạc hậu. Để có kết luận đúng đắn vấn đề này cần làm
rõ những nội dung sau.
Giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội của C. Mác là không thể phủ nhận
Trước C. Mác, đã có không
ít các học thuyết phân chia xã hội theo nhiều cách khác nhau. Vicô (1688-1744)
phân chia các giai đoạn phát triển xã hội theo vòng đời của một con người: thơ
ấu, thanh niên, thành niên và tuổi già; Hêghen (1770-1831) lại phân chia lịch
sử loài người thành ba thời kỳ: Phương Đông, Cổ đại và Giécmani; Phuriê (1771-
1837) chia xã hội thành bốn thời kỳ: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh;
còn Móoc-gan (1818- 1881) người cùng thời với C. Mác lại chia xã hội thành ba
thời kỳ - mông muội, dã man và văn minh. Cách phân chia như trên không đem lại
cách nhìn nhận, cải tạo xã hội đúng đắn, nhất là đối với một xã hội cụ thể. Sự
ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác đã đánh dấu một bước
phát triển nhảy vọt của nhận thức loài người về xã hội, từ đây các khoa học xã
hội đã thực sự trở thành khoa học thoát khỏi sự mô tả thông thường. Bởi những
lý do sau.
Học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội của C. Mác đã phản ánh đúng đắn sự ra đời, vận động phát triển diệt
vong của một xã hội cụ thể.
Khắc phục cách nhìn nhận
xã hội chung chung trừu tượng của các nhà tư tưởng trong lịch sử, bằng tư duy
biện chứng duy vật C. Mác khẳng định phạn trù hình thái kinh tế - xã hội là để chỉ một xã hội cụ thể, một nấc thang,
một giai đoạn của sự phát triển xã hội loài người.
Xã hội ấy là một chỉnh thể, một cơ thể sống,
có tổ chức kết cấu thống nhất. Kết cấu ấy là sự thống nhất giữa những quan hệ
vật chất và quan hệ tinh thần, trong đó quan hệ sản xuất vật chất là quan hệ
khách quan, đầu tiên, quan hệ cơ bản quyết định mọi quan hệ khác (trong đó có
quan hệ tinh thần, tư tưởng) và là quan hệ quyết định bản chất của một hình
thái kinh tế - xã hội. Xã hội ấy gồm ba yếu tố cơ bản tạo nên là lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất đặc trưng và kiến trúc thượng tầng tương ứng, trong đó
lực lượng sản xuất là cái suy đến cùng quyết định sự tồn tại phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất đặc trưng là cái quyết định bản
chất hình thái kinh tế - xã hội, kiến
trúc thượng tầng có vai trò tác động trở lại rất to lớn đối với quan hệ sản
xuất thông qua đó tác động đến sự vận động biến đổi của lực lượng sản xuất.
Nhưng học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội không chỉ phản ánh xã hội trong trạng thái tĩnh với tư
cách là tổng hòa các yếu tố, các mối quan hệ giữa người và người, mà còn phản
ánh xã hội trong trạng thái vận động,
phát triển dưới sự tác động của các quy luật, các mâu thuẫn khách quan nảy sinh
trong lòng nó. Các quy luật này không phải ở bên ngoài du nhập tới, không phải
ý muốn chủ quan của các bậc siêu nhiên áp đặt vào, càng không phải là sự sao
chép của một thực thể nào khác của thế giới sinh học, hay của cá thể con người,
mà nảy sinh từ chính những mối quan hệ
giữa các yếu tố, các quan hệ tạo thành
hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật về quan hệ giữa kiến trúc
thượng tầng và cơ sở hạ tầng.
Sự phát huy tác dụng của các quy luật này làm
xuất hiện những mâu thuẫn bất cập giữa các yếu tố cơ bản của hình thái kinh tế - xã hội, tạo nên
nguồn gốc động lực và nguyên nhân nhân thật sự của sự sự tồn tại, phát triển
của một hình thái kinh tế - xã hội, của cơ thể sống ấy; và cũng chính sự vận
động của những quy luật và những mâu thuẫn bên trong của một hình thái kinh tế
- xã hội này sẽ đưa nó đến diệt vong, theo đó làm xuất hiện một hình thái kinh
tế - xã hội mới tiến bộ hơn.
Học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội của C. Mác, phản ánh xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất
định, với tư cách là một cơ thể sống, không chỉ trong hiện tại mà còn là kết
quả của sự tiếp nối không thể tách rời của quá khứ và tương lai. Điều này khẳng
định toàn bộ trạng thái của một xã hội và các yếu tố, các quan hệ đều là kết
quả không chỉ từ tác động của những nhân tố, quan hệ, hoàn cảnh, điều kiện
đương đại mà còn là sự kế thừa có chọn lọc của quá khứ. Đến lượt nó, xã hội
hiện tại cùng toàn bộ những yếu tố quan hệ cấu thành nó lại là cơ sở cho sự
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội tương lai.
Học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội của C. Mác chỉ rõ, mỗi hình thái kinh tế - xã hội là sản phẩm của
sự tương tác giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa sự vận động
của những quy luật khách quan với hoạt động nhận thức và cải tạo của con người.
Sự vận động, phát triển của xã hội trước hết là do những quy luật khách quan
quy định, các quy luật này không những không phụ thuộc vào ý muốn của con
người, mà còn quy định hoạt động của họ. Song các quy luật xã hội chỉ có thể
phát huy, tác dụng và tồn tại thông qua nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con người. Do vậy, trong sự vận động biến đổi của xã hội nói chung của các hình
thái kinh tế - xã hội nói riêng, hoạt động nhận thức và cải tạo của con người
có vai trò rất quan trọng. Thông qua nhận thức và hoạt động của mình, con người
có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quy luật hoạt động phát huy tác
dụng. Con người có thể thay đổi hình thức, trật tự tác động của quy luật theo
mục đích của mình, con người có thể sử dụng quy luật này hạn chế hoặc thúc đẩy
sự phát triển của quy luật kia và ngược lại. Chính hoạt động nhận thức và cải
tạo của con người, nhất là hoạt động nhận thức và cải tạo của những tập đoàn xã
hội có vai trò chính yếu trong xã hội đó, như giai cấp thống trị, giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất mới sẽ là động lực thúc đẩy hay nhân tố kìm hãm sự phát triển của một hình
thái kinh tế xã hội, là nhân tố làm cho xã hội phát triển quanh co thụt lùi,
biến dạng hay có thể bỏ qua những hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời lạc
hậu để phát triển lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Nếu không có nhân tố
chủ quan này sự vận động của xã hội sẽ như như một đường thẳng, một định mệnh,
nhạt nhẽo theo sự sắp đặt của các đấng siêu nhiên, hoặc vòng xoay luân hồi
trong trí tưởng tượng của các tín đồ tôn giáo.
Như vậy, trong các nhân tố quy định sự vận
động phát triển của hình thái kinh tế -
xã hội, theo quan điểm của C. Mác, vai trò quyết định suy đến cùng thuộc về các
quy luật khách quan, nhưng hoạt động nhận thức của con người có vai trò rất
quan trọng; nó là nhân tố quyết định trực tiếp. Quan điểm này của C. Mác cung
cấp cho loài người thế giới quan, phương pháp luận trong xem xét sự vận động
phát triển phức tạp của các hình thái kinh tế - xã hội ở các quốc gia dân tộc,
và sự vận động tuần tự hay bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội ở một
số quốc gia dân tộc trong lịch sử và hiện nay.
Quan điểm của C. Mác về
hình thái kinh tế - xã hội còn cung cấp cho con người con đường biện pháp, cách
thức, bước đi thích hợp để xây dựng một xã hội phát triển.
Khi khẳng định xã hội là
một cơ thể sống, các yếu tố lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất gắn bó chặt chẽ
làm tiền đề điều kiện cho nhau, đồng nghĩa với việc muốn xã hội phát triển các
yếu tố cơ bản trên đây phải được xây dựng phát triển một cách hài hòa. Nguyên
tắc của sự hài hòa đó là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với các quan hệ sản
xuất, trước hết là quan hệ sản xuất đặc trưng quan hệ sản xuất thống trị. Sự
cân đối hài hòa này còn tùy điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Song thước đo cao nhất
là sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự giải phóng năng lực người, mức độ
hạnh phúc của nhân dân lao động. Mặt khác khi khẳng định lực lượng sản xuất là
nhân tố suy đến cùng quyết định sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội,
điều đó cũng đồng nghĩa, khi xây dựng cải tạo xã hội, trước hết, trên hết phải
tập trung cao nhất cho sự phát triển lực lượng sản xuất, cho sự phát triển hoàn
thiện, phát triển các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, các điều kiện, môi
trường hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát triển quy mô, trình độ, tính chất của
lực lượng sản xuất.
Hơn nữa, học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội chỉ rõ trong xem xét cải tạo xã hội không được tuyệt đối
hóa sự phát triển lực lượng sản xuất. Cho nên, khi xây dựng phát triển xã hội
phải đồng thời chú ý phát triển quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ấy, đồng thời phải quan tâm phát triển kiến trúc
thượng tầng với tính cách là bộ mặt tinh thần của xã hội sao cho phù hợp với cơ
sở hạ tầng và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Bởi, tiến hành xác lập
quan hệ sản xuất phù hợp tiến bộ, không chỉ là xây dựng quan hệ cơ bản, đầu
tiên quyết định sự tồn tại, biến đổi mọi
quan hệ khác của xã hội, mà còn xác lập, giải quyết hài hòa lợi ích của những
người tham gia vào quá trình sản xuất, tạo nên động lực căn bản to lớn nhất để
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, làm cho người lao động, nhân tố chủ yếu
nhất của lực lượng sản xuất phấn khởi, nâng cao năng suất lao động, tạo nên
chiến thắng của hình thái kinh tế - xã hội này đối với hình thái kinh tế - xã
hội khác. Xây dựng, phát triển kiến trúc thượng tầng tương ứng không chỉ là xây
dựng một bộ mặt tinh thần xã hội làm cho xã hội phát triển bền vững, mà ngày
nay, đó còn là xây dựng nhà nước - một
lực lượng kinh tế hùng mạnh thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
Xây
dựng phát triển xã hội, theo C. Mác trước hết phải phát huy cao độ nhân tố chủ
quan của con người, của toàn thể quần chúng nhân dân lao động, trước hết vai
trò của giai cấp, tập đoàn lãnh đạo xã hội, trong việc nhận thức và vận dụng
các quy luật xã hội. Phát huy tốt vai trò này xã hội sẽ phát triển, nhân loại
sớm đi đến bến bờ hạnh phúc, bớt phải gánh chịu những tổn thất nặng nề, những
cái giá quá đắt trong sự phát triển xã hội, trong mối quan hệ với “bà mẹ” tự
nhiên và với đồng loại.
Học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội của C. Mác còn cung cấp cho con người một công cụ để đánh giá sự
vận động phát triển, diệt vong của một xã hội cụ thể.
Sự
phát triển giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng,
trong sự hài hòa tương ứng, hỗ trợ tạo điều kiện cho nhau phát triển, trong đó
sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự tăng lên không ngừng của năng
suất lao động, sự phấn khởi hạnh phúc của nhân dân lao động là thước đo cao
nhất cho sự ổn định, phát triển, cho sự tồn tại thích nghi của một hình thái
kinh tế - xã hội.
Ngược lại, sự phát triển
không hoặc thiếu cân đối hài hòa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng nếu không sớm được phát hiện giải
quyết kịp thời, thì ít nhất sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội hoặc sớm muộn
sẽ đưa xã hội đến diệt vong.
Trong sự vận động, phát
triển theo quy luật của hình thái kinh tế - xã hội và các yếu tố cấu thành nó,
dù hiện tại đang rất vững vàng, mạnh mẽ, nhưng luôn bao hàm trong đó sự phủ
định, sự diệt vong để thay thế vào đó một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ
hơn. Điều đó là một tất yếu khách quan không thể đảo ngược; nhưng con người có
thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình này. Vì thế, đánh giá sự vận động xã hội,
sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội cần thấy hết vai trò của nhân tố
chủ quan, nhất là vai trò của giai cấp thống trị xã hội.
Những tiêu chí trên đây
chính là tiêu chuẩn khách quan không chỉ để con người đánh giá sự vận động phát
triển diệt vong của một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể mà còn là tiêu chí,
đánh giá sự ổn định, phát triển bền vững, hay sự trì trệ, khủng hoảng thiếu
vững chắc, thậm chí đang có nguy cơ phá sản của một giai đoạn nhất định của một
hình thái kinh tế - xã hội.
Lịch sử phát triển của xã
hội loài người từ xưa tới nay đã chứng minh tính đúng dắn của học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của C. Mác. Mọi sự tồn tại ổn định của xã hội phải từ sự ổn dịnh của kinh tế,
của đời sống vật chất. Mọi sự phát triển, hơn nữa mọi sự đổi mới để phát triển
đều phải từ sản xuất vật chất, hướng tớí
phát triển sản xuất. Để sản xuất phát triển, xã hội ổn định phải giải quyết
đúng đắn lợi ích, trước hết là lợi ích giữa người và người trong quá trình sản
xuất theo đó phải xác lập một quan hệ sản xuất phù hợp tiến bộ. Đồng thời muốn
xã hội phát triển các quốc gia dân tộc
còn phải xây dựng kiến trúc thượng tầng thích hợp và có chiến lược nhằm xây
dựng và phát huy cao độ nhân tố con người, nhất là vai trò của giai cấp thống
trị. Hơn nữa, sự phát triển bền vững của một quốc gia dân tộc, dù có chế độ
kinh tế xã hội nào đều phải phát triển
toàn diện hài hòa cân đối lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng, giữa quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần. Ngược lại, mọi sự
vi phạm các nguyên lý của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác đều dẫn
đến hậu quả khôn lường, dù đó là chế độ kinh tế xã hội gì và vào thời điểm nào.
Cùng là đổi mới, cải cách, cải tổ để củng cố
và phát triển chủ nghĩa xã hội, nhưng Việt Nam, Trung Quốc đổi mới, cải
cách đi từ kinh tế, đồng thời tiến hành
đổi mới toàn diện các lĩnh vực khác của xã hội với những bước đi thích hợp và
đã giành được những thắng lợi to lớn. Ngược lại, Liên Xô cải tổ lại bắt đầu từ
chính trị không quan tâm đổi mới kinh
tế, nên đã chịu hậu quả nặng nề. Những khủng hoảng ở các nước Bắc Phi, Trung
Đông dẫn đến sự ra đi của hàng loạt chế độ chính trị đã từng trị vì đất nước
nhiều chục năm, như ở Li-bi, Ai Cập đưa những đất nước này chìm đắm trong bạo
lực, chia rẽ, ngoài những nguyên nhân phá hoại từ bên ngoài đều có nguyên nhân
từ sự bất ổn về kinh tế, từ sự giải quyết không hài hòa giữa lợi ích của các
tập đoàn lãnh đạo với toàn xã hội, từ sự đói nghèo, sa sút nghiêm trọng của đời
sống vật chất, tinh thần của đa số quần chúng nhân dân lao động.
Sự đỗ vỡ của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu cũng là bài học cho sự vi phạm những nguyên
lý về xây dựng hình thái kinh tế - xã hội của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Thực tiễn ở mô hình này, chúng ta đã quá nhấn mạnh quan hệ sản xuất, đưa
quan hệ sản xuất vượt trước không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất không những không phát triển mà còn bị kìm
hãm nặng nề. Mặt khác, chúng ta đã không chú ý đúng mức đến việc vận dụng khoa
học công nghệ hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, làm cho đời sống nhân
dân lao động không được cải thiện thậm chí giảm sút, năng suất lao động không
tăng và có xu hướng giảm, trong khi chủ nghĩa tư bản đã triệt để lợi dụng các
thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, làm
cho năng suất lao động không ngừng tăng và đã nhanh chóng thực hiện những cải
cách trong quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối, ít nhiều đã cải thiện được đời
sống những người lao động. Cùng với đó, trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô và Đông Âu lại xuất hiện một kiến trúc thượng tầng về chính trị rất
công kềnh nặng nề kém hiệu quả với những tư tưởng bảo thủ, giáo điều. Do vậy,
sự tan rã của mô hình này ngoài tác động
của chủ nghĩa đế quốc còn có nguyên nhân trực tiếp từ trong bản thân các yếu tố
cấu thành hình thái kinh tế - xã hội, từ vai trò của các Đảng Cộng sản trong
việc nghiên cứu vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác .
Học thuyết các nền văn minh của Alvin Toffler là phi khoa học,
phản động về chính trị.
Ngày nay, đứng trước sự thất bại tạm thời của
phong trào cách mạng thế giới, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu, không ít ý kiến nghi ngờ thậm chí đòi phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế
- xã hội của C. Mác, thay vào đó là học thuyết các nền văn minh của Alvin
Toffler.
Đúng là học thuyết của
Alvin Toffler chưa đựng phần nào tư tưởng duy vật khi xem xét xã hội từ sự phát
triển của công cụ sản xuất, của lực lượng sản xuất, từ đó dự đoán được khá
chính xác sự chuyển đổi của những mô hình sản xuất, sinh hoạt xã hội trong nền
kinh tế tri thức. Thực ra, tư tưởng về sự biến đổi của công cụ sản xuất dẫn đến
sự biến đổi của chế độ xã hội của Alvin Toffler không phải là một phát hiện
hoàn toàn mới mẻ, mà đã từng được C. Mác đề cập
trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”. C. Mác viết: “Cái cối xay
bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay bằng hơi nước đưa lại xã hội
có nhà tư bản công nghiệp”.
Cái sai lầm dễ nhận thấy của Alvin Toffler là đã tuyệt đối hóa lực lượng sản
xuất, hoặc chỉ đơn thuần là công cụ sản
xuất, khoa học và công nghệ, lãng quên quan hệ sản xuất cái đặc trưng bản chất
để phân biệt hình thái kinh tế - xã hội này với hình thái kinh tế - xã hội
khác, lãng quên kiến trúc thượng tâng, yếu tố quan trọng không thể thiếu của
bất cứ xã hội nào, nhất là trong xã hội hiện đại, với tính cách là một cơ thể
sống.
Đặc biệt với cách tiếp
cận các nền văn minh, Alvin Toffler đã bỏ qua nhân tố chủ quan, bỏ qua vai trò
của con người, của các giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại, nhân tố quyết
định trực tiếp sự vận động phát triển diệt vong của xã hội nói chung, các hình
thái kinh tế - xã hội nói riêng. Vì thế, quan niệm của Alvin Toffler về phân
chia xã hội theo các nền văn minh, tuy là sự kế thừa phát triển các quan điểm
của Phuriê, của Moócgan, nhưng vẫn là quan điểm phiến diện, siêu hình không thể
là cơ sở khoa học để xem xét, đánh giá, cải tạo và xây dựng xã hội.
Mặt khác về mặt chính
trị, quan niệm của Alvin Toffler còn là sự biện hộ, bảo vệ cho sự tồn tại của
chế độ tư bản, hơn nữa gián tiếp tuyên dương công trạng khai hóa “văn minh”,
xóa đi tội ác tầy trời của chủ nghĩa tư bản trong các cuộc chiến tranh xâm lược
đối với các dân tộc nhỏ yếu kém phát triển. Đồng thời phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin, phủ nhận sự ra đời chiến thắng của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cộng sản,
vai trò sứ mệnh của giai cấp công nhân. Vì thế, có thể coi học thuyết 3 nền văn
minh của Alvin Toffler là cơ sở lý luận cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
trong thời kỳ toàn cầu hóa.
Những phân tích trên đây
dù chưa đầy đủ và thấu dáo nhưng cũng đủ chứng minh tính đúng đắn cách mạng
khoa học, tính không thể phủ nhận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của
C. Mác, sự thiếu khoa học, phản động về chính trị của học thuyết các nền văn
minh của Alvin Toffler. Do vậy, không phải học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội của C. Mác lỗi thời lạc hậu mà chính những luận điệu phủ nhận nó mới thực
sự lỗi thời lạc hậu./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét