Mừng Khắc
Đảng
ta do Bác Hồ sáng lập và rèn luyện luôn coi công tác lý luận là bộ phận quan
trọng, là nhân tố hàng đầu cấu thành hoạt động lãnh đạo của Đảng. Có thể nói
sinh mạng của Đảng cũng như sự thành bại của sự nghiệp cách mạng có liên quan
chặt chẽ với hoạt động lý luận của Đảng. Điều này được minh chứng hùng hồn qua
những chặng đường lịch sử vẻ vang của cách mạng nước ta. Nền tảng của công tác
lý luận của chúng ta là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở
đó, công tác lý luận còn được tổng kết đúc rút từ thực tiễn. Chính thực tiễn
cùng với sự đổi mới không ngừng trong tư duy lý luận là điều kiện và cơ sở để
công tác lý luận phát triển và những vấn đề lý luận ngày càng được làm giàu
thêm.
Một
vấn đề rất quan trọng trong công tác lý luận là đấu tranh chống các quan điểm
sai trái và những tư tưởng lệch lạc. Lý luận, đặc biệt là lý luận chính trị lúc
nào cũng dựa trên lập trường của một giai cấp nhất định. Vậy nên đấu tranh lý
luận là một khía cạnh quan trọng trong những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu
tranh lý luận không chỉ xoay quanh vấn đề cốt lõi nhất của lý luận, mà thường
gắn với những vấn đề thực tiễn, nhất là những biến động của đời sống xã hội.
Cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng – lý luận hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh
mới, có nhiều thuận lợi mới và không ít khó khăn, thách thức mới đối với việc
bảo vệ những quan điểm lý luận của chúng ta. Chưa bao giờ tầm vóc và sức mạnh
của dân tộc, của đất nước lại rạng rỡ và mạnh mẽ như hôm nay. Điều đó làm cho
công tác lý luận có một cơ sở thực tế mới, có một “cốt vật chất” vững chắc để
thực hiện những nhiệm vụ của mình. Nhưng mặt khác, những thách thức đối với
công tác lý luận không hề nhỏ, đặc biệt là những thách thức này gây những trở
ngại cho cuộc đấu tranh lý luận. Đó là những nghịch lý và những diễn biến khó
lường của thế giới hiện nay. Ngay cả những giá trị cao đẹp và đích thực mà nhân
loại dày công tạo dựng, vun đắp như hòa bình, độc lập, chủ quyền, công bằng,
tiến bộ xã hội… cũng bị những thế lực đế quốc phản động dùng mọi mưu mô đánh
phá. Đã thế, có một tình hình là thông tin về mọi mặt đời sống chính trị - kinh
tế - văn hóa - xã hội ở mọi nơi trên thế giới và trong nước, cả mặt thuận và
mặt trái, đều có thể hấp thụ được qua nhiều cách, nhiều chiều trên nhiều phương
diện. Việc nghe, việc nhìn cũng như suy nghĩ của mỗi người trong điều kiện
thông thoáng bên trong, mở cửa, hội nhập với bên ngoài hôm nay đã khác hôm qua.
Tất cả điều đó tác động đến công tác lý luận nói chung và tác động trực tiếp
đến cuộc đấu tranh lý luận nói riêng. Từ đó trong việc đấu tranh lý luận, chúng
ta phải kế thừa những cách thức và phương pháp vốn có, đồng thời phải có cách
làm đổi mới, sáng tạo. Điều căn bản nhất là thấy hết những yêu cầu mới đặt ra
đối với cuộc đấu tranh lý luận hiện nay. Những yêu cầu đó thể hiện trên một số
nội dung chính yếu sau:
Một là, trong
cuộc đấu tranh lý luận, cần nhận rõ sự phức tạp trên con đường cách mạng nước
ta vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Trên con đường đó, chúng ta gặp không ít khó khăn, không
ít lực cản. Có những khó khăn do chính bản thân chúng ta không lường hết, khó
khăn nội tại do chủ quan duy ý chí hoặc do bảo thủ trì trệ dẫn tới sự đình đốn
thậm chí vấp ngã. Từ đó dẫn tới sự lúng túng và thiếu lý lẽ thậm chí bế tắc
trong lập luận. Sự kiện ở Liên Xô trước đây và Đông Âu – những nơi mà chủ nghĩa
xã hội hiện thực tưởng như rất vững chắc, nhưng đã bị tan rã một cách nhanh
chóng, đã cho ta bài học sâu cả về tính phức tạp của thế giới đương đại và
những trắc trở, khó khăn của con đường đi tới tương lai của loài người. Vấn đề
đặt ra là vận mệnh của chủ nghĩa xã hội sẽ phụ thuộc vào chính việc nhìn nhận
rõ và khắc phục tốt những vướng mắc bên trong của xã hội xã hội chủ nghĩa, nhất
là khi chủ nghĩa xã hội chưa được xây dựng một cách hoàn hảo. Đó là những vấn
đề nảy sinh từ tính phức tạp của thực tiễn mà ta chưa lường hết và có trường
hợp từ sai lầm về nhận thức dẫn tới sai lầm về hành động; từ sự thiếu hiểu biết
mà làm sai, làm ẩu; sự thiếu nhạy cảm nên chậm chạp để mất thời cơ; sự vi phạm
nguyên tắc dẫn tới sự chệch hướng.
Thực
tiễn quá trình cách mạng của chúng ta hiện nay cũng chứa đựng những vấn đề
không đơn giản. Phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa, mở
cửa hội nhập quốc tế là những nhiệm vụ tất yếu mà chúng ta đang tiến hành.
Nhưng ai cũng biết, mặc dù chúng ta luôn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng
phát triển kinh tế thị trường càng mạnh thì tính tự phát của khuynh hướng tư
bản chủ nghĩa cũng sẽ tăng lên. Chúng ta lại đang ở thời kỳ quá độ, trong đó
nền kinh tế và cả xã hội cũng có những vấn đề quá độ đan xen nhau rất khó rạch
ròi. Quá trình mở cửa hội nhập, chủ động làm ăn với các nước tư bản chủ nghĩa
lại sử dụng những giải pháp và cách thức phát triển của chủ nghĩa tư bản để xây
dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra nhiều thách đố đối với công tác lý luận và đặc
biệt là công tác đấu tranh về lý luận để bảo vệ những nguyên lý và quan điểm,
định hướng của chúng ta.
Hai là, phải
xuất phát từ tư duy khoa học và sáng tạo trong cuộc đấu tranh lý luận; để có
sức thuyết phục, mọi lý lẽ được sử dụng phải mang tính khoa học và sáng tạo.
Chúng ta đều thấy rằng: Một mặt, lý thuyết về chủ nghĩa xã hội và xã hội xã hội
chủ nghĩa được hình thành một cách khoa học, có khảo sát, phân tích thấu đáo
trên cơ sở vân dụng những qui luật khách quan. Nhưng mặt khác, đôi khi chúng ta
không chú ý hoặc vô tình bỏ qua một vấn đề quan trọng là những luận thuyết về
chủ nghĩa xã hội được xác lập dựa vào những phương pháp trừu tượng rất cao.
Phải tìm tòi và gạt bỏ những vấn đề, những yếu tố đặc thù, hoặc không cơ bản để
đi sâu vào lý giải những vấn đề cốt lõi. Lý thuyết nguyên bản cội nguồn đó khi
được áp dụng vào những tình huống cụ thể, lẽ ra phải tính tới sự gắn kết những
điều kiện bên ngoài với bên trong và phải được soi rọi từ thực tế thì sự vận
dụng nhiều khi biệt lập, không cân nhắc đến khía cạnh đó nên dễ bị khiên cưỡng
và thường gặp những vướng mắc khó có thể tháo gỡ.
Tính
trừu tượng cao của chủ nghĩa xã hội khoa học chính là những nguyên lý chung
nhất, mang tính phổ biến nhất có thể áp dụng cho mọi nơi, mọi nước. Tuy nhiên,
trong quá trình vận dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể không tính
đến, thậm chí phải hết sức tính đến những điều kiện đặc thù. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là tấm gương mẫu mực về sự vận dụng một cách sáng tạo như thế. Trên cơ sở
nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân
đạo của học thuyết Mác-Lênin, Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết đó cùng với
việc kế thừa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa
văn hóa nhân loại để đưa ra những tư tưởng phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện
của Việt Nam. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng,
đặc biệt là lý luận và cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở các nước thuộc địa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cách
mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi, trở thành nền tảng tư tưởng bền vững của
dân tộc và có sức lan tỏa ra thế giới.
Ba là, trong
đấu tranh lý luận không được phiến diện, tuyệt đối hóa một chiều và không công
thức hóa. Phiến diện và tuyệt đối hóa sẽ dẫn tới làm mất đi tính khoa học của
lý luận và tính phong phú của thực tế, làm cho lý luận bị ngưng đọng và không
đủ uyển chuyển để tìm ra những luận cứ đấu tranh. Như khi luận bàn về mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng ta có lúc đánh giá nhìn
nhận quá cao tác dụng “mở đường” của quan hệ sản xuất; lúc khác thì chỉ để ý
đến vấn đề lợi ích, đến việc phát huy các yếu tố của lực lượng sản xuất nên coi
nhẹ, thậm chí quên mất việc quan hệ sản xuất phù hợp một cách chủ động và tích
cực đối với lực lượng sản xuất. Vấn đề sở hữu cũng vậy, trước đây trong lý
thuyết chúng ta chú trọng hết sức đến hai hình thức sở hữu trong xã hội chúng
ta là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, coi đó là điều tuyệt đối đúng, là hình
thức cơ bản đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Cho đến hiện nay, khi xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì xuất hiện những
nhận thức lửng lơ, phó mặc, ít chú trọng tới việc củng cố, hoàn thiện các thành
phần kinh tế mang tính chủ đạo, nền tảng là kinh tế nhà nước và hợp tác xã.
Vấn
đề công thức hóa cũng vậy. Khi nói về kết cấu và bản chất của chủ nghĩa xã hội,
đôi khi chúng ta mô tả nó một cách công thức đơn giản, hời hợt, sơ lược, coi
như không có mâu thuẫn; không nhìn thấy hết và không quan tâm hết đến các hệ
thống lợi ích khác nhau của các tầng lớp xã hội. Tất cả những điều đó đã vô
tình hạ thấp vị trí và vai trò của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và trên thực tế
sẽ tạo ra những cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bốn là, đấu
tranh lý luận cần lấy căn cứ từ thực tiễn, quan tâm đến vấn đề của thực tiễn
đặt ra. Nếu trong đấu tranh lý luận mà cứ đi theo một chiều hướng chính thống,
theo công thức định sẵn, không chú ý đến các vấn đề mới nảy sinh trong kinh tế,
không để tâm đến tâm trạng xã hội và tình cảm của nhân dân thì không thể đủ sức
thuyết phục. Một khi công tác tư tưởng, lý luận cứ theo một khuôn khổ cứng
nhắc, không đề cập đến những vấn đề thực tiễn đang nảy sinh vào hoạt động của
mình thì nhất định các tư tưởng lý luận xa lạ sai lệch sẽ xen vào. Trong những
dạng thức tư tưởng dễ xâm nhập vào quần chúng, phải kể đến ý thức tư tưởng tiểu
tư sản. Ý thức tiểu tư sản thường được “tái sinh” từ sự chủ quan của công tác
tư tưởng nói chung và công tác đấu tranh lý luận nói riêng; từ những vi phạm nguyên
tắc xã hội chủ nghĩa trong sản xuất, phân phối và trong cả sinh hoạt đời sống
đã động chạm đến lợi ích vật chất, quyền lợi của quần chúng lao động. Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người mở đầu cho cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa
tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của chủ nghĩa thực dân, đứng lên giành chính
quyền, xây dựng xã hội mới. Trên từng bước đường đổi mới gặp vô vàn khó khăn
của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chứng minh một cách rõ ràng
cho quần chúng hiểu được những điều cụ thể, từng công việc cần làm và sẽ làm
được nếu tất cả mọi người cùng giác ngộ, cùng quyết tâm, đồng lòng chung sức.
Năm là, đấu
tranh lý luận phải hướng vào chủ đích là củng cố niềm tin, sao cho toàn thể cán
bộ, đảng viên, nhân dân tin vào sự tất thắng của sự nghiệp cách mạng, quyết tâm
thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một điều rất hiển nhiên là,
triển vọng phát triển của đất nước phụ thuộc đáng kể vào tư tưởng và nhận thức
của con người. Khi tư tưởng đã thông, thống nhất một cách nghĩ sẽ biến ý chí
thành hành động, làm cho triệu người đồng lòng chung sức, tạo thành lực lượng
vật chất to lớn thúc đẩy xã hội tiến lên. Yếu tố cối lõi đưa tới thống nhất tư
tưởng và hành động là niềm tin. Niềm tin trong mỗi con người là sự chắt lọc từ
nhận thức và nằm trong chiều sâu nhận thức, nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn
lao đối với việc định hướng tư tưởng và định hướng hành động. Niềm tin của cán
bộ, đảng viên và nhân dân là keo gắn trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân, tạo
thành động lực to lớn giúp chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Để
xác lập và củng cố niềm tin, điều cần thiết nhất là phải nâng cao trình độ giác
ngộ, trình độ hiểu biết cho cán bộ đảng viên và nhân dân. Trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp tục đổi mới, mở cửa, hội nhập
quốc tế, đối với mỗi chúng ta, chỉ có tình cảm là không đủ, mà phải là tình cảm
cách mạng dựa trên cơ sở lý luận khoa học vững chắc. Có như vậy mới định hướng
đúng cho mình khi gặp những điều kiện và biến cố phức tạp trong một thế giới
đầy xáo động, ngổn ngang, bất trắc khôn lường. Có như vậy mới đủ kiên định
trước mọi thử thách của thời cuộc.
Những
vấn đề nêu trên là những yêu cầu đặt ra trong cuộc đấu tranh lý luận hiện nay.
Càng thực hiện tốt các yêu cầu đó, cuộc đấu tranh tư tưởng nói chung và đấu
tranh lý luận nói riêng sẽ đạt được hiệu quả như mong đợi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét