Trong thời gian qua, cùng với việc
đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế
lực thù địch còn ra sức tuyên truyền kêu gọi thực hiện cái gọi là “đa nguyên,
đa đảng; đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Hiện nay, trên các trang mạng
xã hội lại xuất hiện nhiều “ý kiến đóng góp” yêu cầu xóa bỏ Điều 4 trong Hiến
pháp, “xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” nhằm mở đường thực
hiện đa nguyên, đa đảng! Vậy phía sau những luận điệu này là gì? Phải chăng
Việt Nam nên đa nguyên, đa đảng?
Trong lịch sử, chế độ đa nguyên, đa đảng đã sớm xuất hiện vào
đầu thế kỷ XVIII. Đây là thời điểm giai cấp tư sản đóng vai trò là lực lượng xã
hội tiến bộ, tích cực đi tiên phong trong đấu tranh chống phong kiến, bảo vệ
quyền bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự
do dân chủ tư sản. Song cùng với bước phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB),
đặc biệt từ khi CNTB tự do cạnh tranh chuyển thành CNTB độc quyền (chủ nghĩa đế
quốc), ý nghĩa tích cực ban đầu của đa nguyên, đa đảng đã hoàn toàn không còn.
Dù đã tìm mọi cách để che đậy song giai cấp tư sản vẫn không thể phủ nhận được
sự thực: mục đích cuối cùng, mục tiêu duy nhất của chế độ đa nguyên, đa
đảng trong xã hội tư bản là bảo đảm quyền lực của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi
ích của giai cấp bóc lột bằng mọi giá.
Một số ít người do thiếu hiểu biết đã ít nhiều tin vào những
luận điệu chống phá của các lực lượng thù địch mà lầm tưởng cứ nhiều đảng cạnh
tranh thì sẽ dân chủ hơn. Nhìn sang một số nước tư bản hiện nay, đặc biệt là
Mỹ, bên cạnh xã hội được coi là “miền đất hứa” với những ánh mỹ kim hào nhoáng,
vẫn còn tồn tại một “xã hội” khác hoàn toàn với đầy rẫy những bất công, bạo
lực, đói nghèo, thất nghiệp, mất dân chủ,… Mỹ có 112 đảng, nhưng chỉ có hai
đảng Cộng hòa và Dân chủ thay nhau cầm quyền, tuy bề ngoài là chế độ đa đảng
đối lập song xét về bản chất đó chỉ là một đảng - đảng của giai cấp tư sản. Dù
Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa nắm quyền cũng đều là đảng của giai cấp tư sản,
đều nhận sự tài trợ của các tập đoàn kinh tế, đại diện cho lợi ích của giai cấp
tư sản. Vì thế, dân chủ ở Mỹ không gì khác là nền dân chủ tư sản, nền dân chủ
chỉ dành cho một bộ phận thiểu số, một số ít người trong xã hội. Trong khi đó,
dân chủ suy đến cùng là quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân
lao động. Do vậy, chế độ đa nguyên, đa đảng không bao giờ và không thể mang lại
những giá trị dân chủ đúng nghĩa.
Đối với nước ta, Điều 4, Hiến pháp hiện hành của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Trong các kỳ Đại
hội, Đảng luôn nhất quán vấn đề này. Đặc biệt, Đại hội XI của Đảng ta đã khẳng
định: Việt Nam không cần có đa đảng. Điều khẳng định này hoàn toàn không phải
xuất phát từ ý muốn chủ quan của Đảng ta như sự xuyên tạc của các thế lực thù
địch, mà dựa trên những cơ sở khoa học cụ thể về cả lý luận và thực tiễn.
Cần phải nói thêm là thực tế không phải lịch sử Việt Nam chưa
từng có chế độ đa nguyên, đa đảng song chính lịch sử đã sớm phủ định chế độ đó.
Nhìn lại lịch sử dân tộc, đã có thời điểm đa nguyên, đa đảng xuất hiện tại Việt
Nam. Năm 1946, trước yêu cầu cách mạng đặt lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc
lên trên hết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố tự giải tán và mở rộng Chính
phủ dân tộc do Hồ Chủ tịch đứng đầu với sự tham gia của nhiều đảng phái đối lập
như Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân đảng); Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh
hội),… Nhưng cùng với dòng chảy của cách mạng, những tổ chức, đảng phái đó kẻ
phản động “bán nước cầu vinh”, người xem nhẹ lợi ích quốc gia, dân tộc nên đã
bị chính lịch sử và nhân dân ta loại bỏ. Khi quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi
Việt Nam, hai đảng này cũng cuốn gói chạy theo, trên vũ đài chính trị nước ta
duy nhất chỉ còn lại Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
với đường lối cách mạng khoa học, đúng đắn đã đại diện quyền lợi của nhân dân
lao động, lợi ích quốc gia, dân tộc. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, một lần
nữa lịch sử và nhân dân lại lựa chọn Đảng ta là lực lượng chính trị có sứ mệnh
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Được sự “hà hơi, tiếp sức” của đế quốc Mỹ, nhiều
đảng phái đã được bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm thành lập ở miền Nam Việt Nam.
Song do mục đích chính trị của những đảng phái này là phá hoại tổng tuyển cử tự
do, thống nhất nước nhà, đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động nên nhân
dân ta đã đoàn kết đấu tranh loại bỏ những đảng phái chính trị đó. Từ sau năm
1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam được củng cố và phát triển toàn diện một lần nữa đã khẳng định tính
tất yếu khách quan Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo ở Việt Nam hoàn toàn
không đồng nghĩa với việc mất dân chủ, triệt tiêu dân chủ như các thế lực thù
địch đã và đang ra sức xuyên tạc. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng
Việt Nam, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đều có sự tham gia
đóng góp ý kiến của quần chúng nhân dân, phát huy dân chủ rộng rãi. Đường lối,
chủ trương của Đảng luôn được xây dựng trên cơ sở lắng nghe, tiếp thu ý kiến
xây dựng của mọi tổ chức chính trị - xã hội, của các đoàn thể và mọi tầng lớp
nhân dân. Trong quá trình chuẩn bị cho Đại hội XI, Đảng đã tổ chức lấy ý kiến
nhân dân và nhận được hàng vạn ý kiến tâm huyết của nhân dân cả nước. Hiện nay,
Quốc hội nước ta đang tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân đóng góp vào Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đây chính là những biểu hiện cao nhất, sinh
động nhất của việc phát huy dân chủ xã hội, đề cao quyền làm chủ thực sự của
nhân dân lao động.
Cùng với những mặt trái của nền kinh tế thị trường, với tinh
thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”, chúng ta không phủ nhận ở đâu
đó trong xã hội vẫn còn có những biểu hiện thiếu dân chủ nhưng đó chỉ là những
hiện tượng riêng lẻ, là những thiếu sót, những hạn chế cụ thể trong quá trình
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Không thể xem đó là bản chất của Đảng
ta, không thể coi đó là bản chất của nền dân chủ mà toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân ta đang gắng sức xây dựng; càng không thể dựa vào những hiện tượng đó
để yêu cầu thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam.
Bài học về thực thi dân chủ sai nguyên tắc trong quá trình cải
tổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu những năm 90 của thế kỷ trước đến nay vẫn còn
nguyên giá trị. Từ khi chấp nhận bỏ Ðiều 6 trong Hiến pháp Liên Xô, đã dẫn đến
tình trạng xuất hiện đa đảng và hậu quả là Ðảng Cộng sản Liên Xô dần đánh mất
quyền lãnh đạo. Những sự thỏa hiệp về “dân chủ hóa”, “công khai hóa” hay “đa
nguyên chính trị” chính là mảnh đất màu mỡ cho các thế lực thù địch đẩy mạnh
hoạt động chống phá, góp phần làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các
nước Đông Âu nhanh chóng sụp đổ. Có thể khẳng định, phía sau những luận điệu hô
hào đòi “đa nguyên, đa đảng; đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” không có mục
đích gì khác ngoài những động cơ chính trị đen tối, là mưu đồ xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong hơn 30 năm qua đã thu được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”, làm thay đổi căn bản bộ mặt
kinh tế, chính trị - xã hội đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân lao động,
bảo đảm dân chủ xã hội,… Chính những thành tựu đó đã một lần nữa khẳng định:
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ có vai trò lãnh đạo cách mạng giải phóng dân
tộc mà còn có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và mang lại cho nhân dân lao động cuộc sống thực sự ấm no, tự do,
hạnh phúc.
Như vậy, thể chế nhất nguyên - Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn
lãnh đạo - ở nước ta chính là sự chọn lựa đúng đắn của lịch sử. Do đó vấn đề
đặt ra hiện nay với chúng ta không phải là lựa chọn một đảng hay đa đảng mà là
phải thực hiện tốt hơn nữa sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ
sở đẩy mạnh cuộc vận động “xây dựng và chỉnh đốn Đảng” gắn với thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XI), Trung ương 4 (khóa XII) để củng cố lòng tin của nhân
dân vào Đảng, xây dựng Đảng ta “thực sự là đạo đức, là văn minh”./.
Ngô Thanh
Trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta; chúng ta cần bình tĩnh xem xét và xử lý thông tin chuẩn xác, tránh mắc mưu của các thế lực thù địch.
Trả lờiXóa