Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2020

Yêu cầu mới của cuộc đấu tranh lý luận hiện nay


Yêu cầu mới của cuộc đấu tranh lý luận hiện nay
                             Văn Thịnh
Đảng ta do Bác Hồ sáng lập và rèn luyện luôn coi công tác lý luận là bộ phận quan trọng, là nhân tố hàng đầu cấu thành hoạt động lãnh đạo của Đảng. Có thể nói, sinh mạng của Đảng cũng như sự thành bại của sự nghiệp cách mạng có liên quan chặt chẽ với hoạt động lý luận của Đảng.
Điều này được minh chứng hùng hồn qua những chặng đường lịch sử vẻ vang của cách mạng nước ta. Một vấn đề rất quan trọng trong công tác lý luận là đấu tranh chống các quan điểm sai trái và những tư tưởng lệch lạc. Lý luận, đặc biệt là lý luận chính trị lúc nào cũng dựa trên lập trường của một giai cấp nhất định. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng – lý luận hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh mới, có nhiều thuận lợi mới, nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức mới đối với việc bảo vệ những quan điểm lý luận của chúng ta. Chưa bao giờ tầm vóc và sức mạnh của dân tộc, của đất nước lại rạng rỡ và mạnh mẽ như hôm nay. Điều đó làm cho công tác lý luận có một cơ sở thực tế mới, có một “cốt vật chất” vững chắc để thực hiện những nhiệm vụ của mình. Mặt khác, những thách thức đối với công tác lý luận không hề nhỏ, đặc biệt là những thách thức này gây những trở ngại cho cuộc đấu tranh lý luận. Đó là những nghịch lý và những diễn biến khó lường của thế giới hiện nay. Từ đó, trong việc đấu tranh lý luận, chúng ta phải kế thừa những cách thức và phương pháp vốn có, đồng thời phải có cách làm đổi mới, sáng tạo. Điều căn bản nhất là thấy hết những yêu cầu mới đặt ra đối với cuộc đấu tranh lý luận hiện nay. Những yêu cầu đó thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, trong cuộc đấu tranh lý luận, cần nhận rõ sự phức tạp trên con đường cách mạng nước ta vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên CNXH. Trên con đường đó, chúng ta gặp không ít khó khăn, không ít lực cản. Có những khó khăn do chính bản thân chúng ta không lường hết, khó khăn nội tại do chủ quan duy ý chí hoặc do bảo thủ trì trệ dẫn tới sự đình đốn thậm chí vấp ngã. Từ đó dẫn tới sự lúng túng và thiếu lý lẽ thậm chí bế tắc trong lập luận. Sự kiện ở Liên Xô trước đây và Đông Âu (những nơi mà CNXH hiện thực tưởng như rất vững chắc, nhưng đã bị tan rã một cách nhanh chóng) đã cho ta bài học sâu cả về tính phức tạp của thế giới đương đại và những trắc trở, khó khăn của con đường đi tới tương lai của loài người. Vấn đề đặt ra là vận mệnh của CNXH sẽ phụ thuộc vào chính việc nhìn nhận rõ và khắc phục tốt những vướng mắc bên trong của xã hội XHCN, nhất là khi CNXH chưa được xây dựng một cách hoàn hảo. Đó là những vấn đề nảy sinh từ tính phức tạp của thực tiễn mà ta chưa lường hết và có trường hợp từ sai lầm về nhận thức dẫn tới sai lầm về hành động; từ sự thiếu hiểu biết mà làm sai, làm ẩu; sự thiếu nhạy cảm nên chậm chạp để mất thời cơ; việc vi phạm nguyên tắc dẫn tới sự chệch hướng.
Hai là, phải xuất phát từ tư duy khoa học và sáng tạo trong cuộc đấu tranh lý luận; để có sức thuyết phục, mọi lý lẽ được sử dụng phải mang tính khoa học và sáng tạo. Chúng ta đều thấy rằng: Một mặt, lý thuyết về CNXH và xã hội XHCN được hình thành một cách khoa học, có khảo sát, phân tích thấu đáo trên cơ sở vận dụng những quy luật khách quan. Nhưng mặt khác, đôi khi chúng ta không chú ý hoặc vô tình bỏ qua một vấn đề quan trọng là những luận thuyết về CNXH được xác lập dựa vào những phương pháp trừu tượng rất cao. Phải tìm tòi và gạt bỏ những vấn đề, những yếu tố đặc thù, hoặc không cơ bản để đi sâu vào lý giải những vấn đề cốt lõi. Lý thuyết nguyên bản cội nguồn đó khi được áp dụng vào những tình huống cụ thể, lẽ ra phải tính tới sự gắn kết những điều kiện bên ngoài với bên trong và phải được soi rọi từ thực tế thì sự vận dụng nhiều khi biệt lập, không cân nhắc đến khía cạnh đó nên dễ bị khiên cưỡng và thường gặp những vướng mắc khó có thể tháo gỡ.
Ba là, trong đấu tranh lý luận không được phiến diện, tuyệt đối hóa một chiều và không công thức hóa. Phiến diện và tuyệt đối hóa sẽ dẫn tới làm mất đi tính khoa học của lý luận và tính phong phú của thực tế, làm cho lý luận bị ngưng đọng và không đủ uyển chuyển để tìm ra những luận cứ đấu tranh. Như khi luận bàn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng ta có lúc đánh giá nhìn nhận quá cao tác dụng “mở đường” của quan hệ sản xuất; lúc khác thì chỉ để ý đến vấn đề lợi ích, đến việc phát huy các yếu tố của lực lượng sản xuất nên coi nhẹ, thậm chí quên mất việc quan hệ sản xuất phù hợp một cách chủ động và tích cực đối với lực lượng sản xuất. Vấn đề sở hữu cũng vậy. Trước đây, trong lý thuyết, chúng ta chú trọng hết sức đến hai hình thức sở hữu trong xã hội chúng ta là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, coi đó là điều tuyệt đối đúng, là hình thức cơ bản đặc trưng của CNXH. Cho đến hiện nay, khi xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN thì xuất hiện những nhận thức lửng lơ, phó mặc, ít chú trọng tới việc củng cố, hoàn thiện các thành phần kinh tế mang tính chủ đạo, nền tảng là kinh tế nhà nước và hợp tác xã.
Bốn là, đấu tranh lý luận cần lấy căn cứ từ thực tiễn, quan tâm đến vấn đề của thực tiễn đặt ra. Nếu trong đấu tranh lý luận mà cứ đi theo một chiều hướng chính thống, theo công thức định sẵn, không chú ý đến các vấn đề mới nảy sinh trong kinh tế, không để tâm đến tâm trạng xã hội và tình cảm của nhân dân thì không thể đủ sức thuyết phục. Một khi công tác tư tưởng, lý luận cứ theo một khuôn khổ cứng nhắc, không đề cập đến những vấn đề thực tiễn đang nảy sinh vào hoạt động của mình thì nhất định các tư tưởng lý luận xa lạ, sai lệch sẽ xen vào. Trong những dạng thức tư tưởng dễ xâm nhập vào quần chúng, phải kể đến ý thức tư tưởng tiểu tư sản. Ý thức tiểu tư sản thường được “tái sinh” từ sự chủ quan của công tác tư tưởng nói chung và công tác đấu tranh lý luận nói riêng; từ những vi phạm nguyên tắc XHCN trong sản xuất, phân phối và trong cả sinh hoạt đời sống đã động chạm đến lợi ích vật chất, quyền lợi của quần chúng lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mở đầu cho cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của chủ nghĩa thực dân, đứng lên giành chính quyền, xây dựng xã hội mới. Trên từng bước đường đổi mới gặp vô vàn khó khăn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chứng minh một cách rõ ràng cho quần chúng hiểu được những điều cụ thể, từng công việc cần làm và sẽ làm được nếu tất cả mọi người cùng giác ngộ, cùng quyết tâm, đồng lòng chung sức.
Năm là, đấu tranh lý luận phải hướng vào chủ đích là củng cố niềm tin, sao cho toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân tin vào sự tất thắng của sự nghiệp cách mạng, quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một điều rất hiển nhiên là, triển vọng phát triển của đất nước phụ thuộc đáng kể vào tư tưởng và nhận thức của con người. Khi tư tưởng đã thông, thống nhất một cách nghĩ sẽ biến ý chí thành hành động, làm cho triệu người đồng lòng chung sức, tạo thành lực lượng vật chất to lớn thúc đẩy xã hội tiến lên. Yếu tố cốt lõi đưa tới thống nhất tư tưởng và hành động là niềm tin. Niềm tin trong mỗi con người là sự chắt lọc từ nhận thức và nằm trong chiều sâu nhận thức, nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với việc định hướng tư tưởng và định hướng hành động. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân là keo gắn trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân, tạo thành động lực to lớn giúp chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác./.



1 nhận xét:

  1. Trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta; chúng ta cần bình tĩnh xem xét và xử lý thông tin chuẩn xác, tránh mắc mưu của các thế lực thù địch.

    Trả lờiXóa