Cứ mỗi lần Trung
Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông, thì dư luận trong và
ngoài nước lại có nhiều ý kiến khác nhau về cách thức ứng phó với âm mưu bành
trướng của Trung Quốc. Chúng ta cần phân tích, xem xét đánh giá thật khách quan
và tỉnh táo.
Trước hết phải
thấy rằng, Việt Nam là nước nhỏ. Trải qua hơn 4.000 năm lịch sử, Việt Nam chưa
bao giờ khuất phục trước giặc phương Bắc - là bấc tường thành vững chắc ngăn
Trung Quốc bành trướng xuống phía Nam. Hiện nay, giả sử xảy ra một cuộc chiến
tổng lực giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông, dù phần thắng về ai thì
đều là thảm họa cho cả hai nước. Bởi vậy, cả Việt Nam và Trung Quốc đều hiểu
điều đó và cần hòa bình. Việt Nam có lợi thế địa lý, quân sự, ngoại giao... để
Trung Quốc phải suy nghĩ, nếu không muốn phải trả giá đắt.
Nhìn lại lịch sử
phong kiến của dân tộc, kể từ cuộc xâm lược Đại Việt của nhà Tống cho đến năm
1979 đến thời kỳ Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa, bình quân khoảng 130 năm,
người Hán lại chủ động gây chiến nhằm mục tiêu thôn tính lãnh thổ nước ta. Từ
năm 1949 đến nay, Trung Quốc đã chủ động xâm lược, gặm nhấm rất nhiều biển đảo,
biên giới của Việt Nam. Ngày nay, đối với Trung Quốc, mọi sự đều vô cùng khó
lường. Vì thế chúng ta cần phải động não đưa ra được một đối sách để tồn tại
hòa bình lâu dài bên cạnh Trung Quốc mà không mất chủ quyền lãnh thổ và chủ
quyền chính trị, không để can qua làm khổ dân lành, làm ảnh hưởng đến sự phát
triển phồn thịnh của quốc gia dân tộc.
Hiện nay, cứ mỗi
lần Trung Quốc gây hấn là xuất hiện các ý kiến trái chiều, nhưng tựu trung có 3
luồng xu hướng chính, đó là:
Một là, xu hướng chủ chiến: Xu hướng này muốn
Việt Nam dàn quân ngay tức khắc, đưa tàu chiến, máy bay ra để “sống mái” với
những hành động ngang ngược, xâm phạm chủ quyền, bất chấp luật pháp quốc tế
trên biển đông của Trung Quốc, khi điều kiện cho phép có thể dùng vũ lực đánh
chiếm lại quần đảo Hoàng Sa và những vị trí bị Trung Quốc chiếm đóng ở quần đảo
Trường Sa. Xu hướng này cũng lập tức kết tội cho Nhà nước hèn nhát, bán nước,
làm tay sai cho Trung Quốc... Đây là một bộ phận có tư duy thiển cận, phản
động, anh hùng bàn phím.
Hai là, xu hướng dân tộc chủ nghĩa cứng rắn: Xu
hướng này muốn dựa vào tinh thần dân tộc, thể hiện rõ tư tưởng bài Trung để thể
hiện quan điểm cứng rắn với Trung Quốc. Biểu hiện của xu hướng này là công khai
đối đầu với Trung Quốc về chính trị, ngoại giao, thậm chí nếu cần thì cắt đứt
bang giao, sẵn sàng cho một cuộc đánh trả bằng quân sự. Xu hướng này thường
xuyên gây sức ép với chính quyền để họ phải tỏ rõ thái độ chống lại Trung Quốc,
bất hợp tác bằng lời lẽ và hành động ngay lập tức. Đây là tư duy của những
người chỉ nhìn được cây, nhưng không nhìn thấy cánh rừng – những người này
thuộc nhóm máu nóng.
Ba là, xu hướng dân tộc chủ nghĩa mềm dẻo, muốn Việt Nam độc
lập với Trung Quốc về chính trị, ngoại giao để tự chủ quan hệ đối tác với những
quốc gia có chung lợi ích chiến lược ở Biển Đông như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Ấn
Độ... khiến Trung Quốc không dám cậy mạnh lấn lướt mà phải lựa chọn sự hữu hảo
bình đẳng. Mặt khác cần nâng cao sức mạnh dân tộc, tập hợp được mọi lực lượng,
tiến tới đưa nước ta thành một cường quốc kinh tế, quân sự… Khi đó nền hòa bình
với Trung Quốc sẽ tự nhiên được thiết lập và có cơ sở để bền chắc và có cơ hội
để đòi lại những phần lãnh thổ bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép. Đây là xu
hướng chính trị nhìn bề ngoài có vẻ phù hợp xu thế “vừa hợp tác vừa đấu tranh”
của thế giới đương đại, nó mang tính tất
yếu về mặt phát triển, đáp ứng nhiều nhất lợi ích của dân tộc trên mọi phương
diện.
Tuy nhiên, cả ba
bộ phận trên khi tiếp cận ở một vài vấn đề then chốt vẫn còn hấp tấp, thiếu đi
độ lạnh của lý trí, sự điềm tĩnh cần thiết để duy trì sự tỉnh táo. Chính vì thế
nhiều ý tưởng đầy trách nhiệm với quốc gia, xuất phát từ những tấm lòng lớn với
xã tắc, lại bị lồng trong cái vỏ của thứ ngôn ngữ chỉ dùng khi chửi bới, miệt
thị, chế nhạo khiến mất đi tính đối thoại, rất đáng tiếc.
Những vụ việc
từng xảy ra ở Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Thuận, TP.Hồ Chí Minh... Khi các
thế lực thù địch, phản động xúi giục một số người dân biểu tình, gây rối, là
việc làm cực đoan, vô tình tiếp tay cho kẻ thù đang lăm le ăn sống nuốt tươi
lãnh thổ của Tổ quốc, thì nội bộ dân tộc lại bị phân tán tạo cơ hội cho kẻ thù.
Việc đánh thức lòng yêu nước, sự cảnh giác của mọi tầng lớp dân chúng trước âm
mưu bành trướng mà Trung Quốc đang tiến hành với Việt Nam là cần thiết. Nhưng
tỉnh táo để giải mã hành động của Trung Quốc rồi đưa ra đối sách khôn ngoan mới
là thứ cần thiết chin chắn hơn.
Chúng ta muốn
hòa bình, chúng ta luôn kiềm chế và không tuyên chiến với ai. Nhưng chúng ta
cũng thẳng thắn rằng: chúng ta không bao giờ sợ chiến tranh, kể cả với Trung
Quốc. Những lời hô hào kích động cho một cuộc chiến tranh thấy rải rác đâu đó,
là vô cùng thiếu lý trí, thậm chí là vô trách nhiệm. Nếu người Trung Quốc cũng
nuôi quan điểm như vậy với Việt Nam, cho dù họ ở thế nước lớn gấp 30 lần chúng
ta, cũng đáng bị coi là thiển cận. Người thông thái thì điều đầu tiên họ phải tìm mọi cách để tránh chiến tranh khi còn
có thể. Lưu ý rằng, tìm mọi cách để tránh chiến tranh, khác với tránh nó bằng
mọi giá. Đọc lại lịch sử chúng ta đều nhận thấy ông cha ta cực kỳ nhất quán với
quan điểm đó, tức là cố gắng hòa hiếu bang giao đến phút chót và chỉ khi không
còn cách nào khác mới phải dùng đến vũ khí.
Giờ là lúc cả
dân tộc cần đến một sự gắn kết, cần một sự đồng tâm, đồng ý, đồng chí, đồng
long. Việt Nam rất cần những bộ óc thông minh, trong sạch hơn bao giờ hết. Bởi
vì vận mạng của dân tộc, sự tồn vong của xã tắc chưa bao giờ bị đặt vào thế
chông chênh như hiện tại. Kẻ thù ngày nay không phải là những đạo quân công
khai tuyên bố sẽ làm cỏ cái nước Nam nhỏ bé với những tối hậu thư ngông cuồng
và lỗ mãng. Kẻ thù ngày nay luôn mang bộ mặt bạn bè, thậm chí còn là những
người có cùng mục tiêu lý tưởng, luôn luôn vuốt ve bằng những lời hoa mỹ ngoại
giao. Kẻ thù ngày nay tạo cảm giác là chỗ dựa tin cậy, cùng tồn tại và cùng
phát triển nhưng âm thầm chống phá “xâm lược” bằng "chiến lược mềm".
Trên thế giới
hiếm có một dân tộc nào bị đô hộ tới cả ngàn năm mà lại vẫn sống sót với tư
cách một dân tộc, để rồi sau đó phát triển thành một quốc gia như Việt Nam. Ý
thức rõ là phải “sống chung với gã hàng xóm láng giềng có tư tưởng bành
trướng”, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tìm ra một triết lý sinh tồn là
“Bang giao hòa hiếu”. Thường sau mỗi cuộc chiến, dù mình là người chính nghĩa
và chiến thắng, nhưng Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi và sau này là Quang Trung vẫn
cung cấp lương thảo, ngựa xe để họ lui quân, dành cho kẻ thù chút sĩ diện để nó
không quá nhục mà trở nên điên cuồng, còn bên trong thì lúc nào cha ông ta cũng
giữ độc lập, bình đẳng với Trung Quốc trong mọi việc, sẵn sàng để đối phó với
Trung Quốc.
Chúng ta có đủ
căn cứ để nói rằng: Không ai mong muốn làm láng giềng núi liền núi, sông liền
sông với Trung Quốc như những gì thế giới chứng kiến ở họ. To lớn như nước Nga
hay Ấn Độ họ cũng không thích thú gì có một ông bạn thâm hiểm, tham tàn và khó
lường như Trung Quốc ở bên cạnh. Trong nửa sau thế kỷ 20, Trung Quốc trực tiếp
và gián tiếp gây chiến tranh với hầu hết bạn bè lân bang. Vì thế, số phận quả
là khắc nghiệt đã đặt chúng ta bên cạnh Trung Quốc, lại ở phía dễ tổn thương
nhất. Xét về mọi khía cạnh thì đây là một thực tế bi thảm mà chúng ta phải đối
mặt. Nhưng có lẽ bi thảm nhất là vô tình chúng ta đóng vai trò vật cản tự nhiên
của tham vọng bành trướng Đại Hán xuống phía Nam. Đây là thực tế phũ phàng xác
định tính thực chất lâu dài cho mối quan hệ Việt-Trung.
Bài học xuyên
suốt tiến trình lịch sử phát triển của dân tộc ta là luôn phải nêu cao cảnh
giác với Trung Quốc; đồng thời khôn khéo, tỉnh táo thoát khỏi những mưu đồ của
Trung Quốc, tận dụng thời cơ, trong đó có cả những mâu thuẫn giữa các cường
quốc để phát triển. Chúng ta chỉ có thể tồn tại và phát triển bên cạnh Trung
Quốc bằng một đối sách khôn ngoan.
Trong cơn khốn
khó đừng bao giờ ngộ nhận sẽ có ai đó giúp ta. Chắc chắn một điều sẽ chẳng có
ai giúp ta. Ta phải tự lực tự cường, khôn ngoan chèo lái con thuyền dân tộc vượt
qua gềnh thác đến bến bờ vinh quang thôi. Một số người ngây thơ định nương nhờ
vào Mỹ! Bài học nhãn tiền là Mỹ, Trung đã nhiều lần bắt tay nhau để o ép, làm
Việt Nam suy yếu, lệ thuộc vào họ. Bằng chứng là họ đã bắt tay nhau chia cắt
Việt Nam bằng hiệp định Giơ – ne – vơ (20/7/1954): Trung Quốc bật đèn xanh cho
Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam bằng chiến dịch Lai – cơ – bếch –
nơ 2 (Điện Biên phủ trên không), ngược lại, Mỹ bật đèn xanh cho Trung Quốc
chiếm hoàng Sa (19/01/1974) và nhiều chuyện động trời nữa chứ chẳng “hữu hảo”
như một số người lầm tưởng đâu./.
CAO THĂNG
Những luận điệu xuyên tạc của bọn phản động không thể lay chuyển được ý chí của những người dân yêu nước
Trả lờiXóaMỗi người dân Việt Nam yêu nước hãy hết sức tỉnh táo, bình tĩnh, kiên quyết, kiên trì, nhận thức rõ luận điệu xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch để có hành động đúng.
Trả lờiXóa