Van Luong
Lịch sử
đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đã chứng minh: giai cấp nào tiến bộ hơn,
lý tưởng nào cao đẹp hơn, hướng tới phục vụ lợi ích của quảng đại quần chúng
nhân dân lao động và được dẫn dắt bởi một đảng chính trị có đường lối phù hợp
với hoàn cảnh đương thời thì tất yếu sẽ giành thắng lợi. Ở Việt Nam, từ khi đất
nước bị thực dân Pháp xâm lược (1858) và hoàn thành việc áp đặt ách đô hộ lên
đất nước ta, nô dịch nhân dân ta (1885), các phong trào yêu nước, đấu tranh
giải phóng dân tộc đã xuất hiện và phát triển mạnh mẽ theo nhiều lập trường, quan điểm khác nhau như: phong trào
Cần Vương của Vua Hàm Nghị; phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế của Hoàng
Hoa Thám; phong trào yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh; phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc theo đường lối tư sản của Nguyễn Thái Học,… Song
tất cả các phong trào ấy đều thất bại hoặc bị dìm trong biển máu, bởi vì không
có đường lối đúng, không phù hợp với bối cảnh lịch sử đương thời và xu thế thời
đại.
Tuy nhiên,
khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và tìm thấy
con đường cách mạng Việt Nam - Con đường cách mạng vô sản, Người chủ trì hợp
nhất ba tổ chức cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930). Từ
đây, cách mạng Việt Nam chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối, nhân dân Việt Nam
sau “đêm dài bế tắc không có đường ra” đã tìm thấy lý tưởng, ngọn cờ lãnh đạo,
lực lượng lãnh đạo và dẫn đường chỉ lối cho toàn dân tộc đấu tranh giành độc
lập cho dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cũng từ khi có Đảng lãnh
đạo, cách mạng Việt Nam giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, đánh
đổ chế độ thực dân phong kiến, đế quốc Pháp và Mỹ, các thế lực ngoại bang xâm
lấn biên cương bờ cõi, và ngày nay đang giành nhiều thắng lợi trong công cuộc
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên,
cùng với những thắng lợi và thành tích vẻ vang Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân
giành được trên tất cả các lĩnh vực hơn 88 năm qua, song hành với thời gian ấy
là cuộc đấu tranh không kém phần gay go, quyết liệt để chống lại các biểu hiện
nhận thức và hành động không đúng; các quan điểm sai trái, phản động của các
thế lực thù địch phủ nhận, xuyên tạc, tấn công nhằm hạ thấp vai trò, vị thế, uy
tín của Đảng, nhằm lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới
nhiều chiêu bài, thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Đặc biệt, chúng vu khống Đảng ta
độc đoán chuyên quyền, tham quyền, cố vị; phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng; phủ nhận hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, yêu cầu thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam…
Chúng đẩy mạnh các hoạt động phá hoại về tư tưởng, chống phá về tổ chức, hạ bệ
thần tượng Hồ Chí Minh, vu khống, bôi nhọ các lãnh tụ và cán bộ cao cấp của
Đảng, Nhà nước ta; cổ vũ, “hà hơi tiếp sức” cho các quan điểm sai trái, đối
lập, các phần tử cơ hội chính trị chống phá cách mạng Việt Nam cả ở trong nước
và ở hải ngoại. Kết hợp giữa chống phá công khai, bán công khai với bí mật, sử
dụng nhiều lực lượng tham gia, chống phá dưới nhiều hình thức, nhiều phương
tiện, nhất là lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, internet, các trang
mạng xã hội để tuyên truyền, chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
Mục tiêu
xuyên suốt của các thế lực thù địch là thông qua các hoạt động “diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,
“phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, “xâm lăng về văn hóa”,… nhằm phá hoại
tư tưởng, thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân, kể cả đội ngũ
cán bộ, đảng viên vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tính tất yếu sự ra đời và
lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội của Đảng Cộng
sản Việt Nam; đòi xóa bỏ Điều 4, Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, từ đó lôi kéo các tầng lớp nhân dân, trước hết là thanh thiếu niên, đồng
bào các dân tộc thiểu số, kiều bào ta đã từng học tập, làm việc ở nước ngoài và
các phần tử chống đối, phản động nghe theo, tin theo, đi theo con đường chống
đối lại mục tiêu, lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc Việt
Nam. Trên cơ sở đó, từng bước hình thành tư tưởng, quan điểm đối lập, phần tử
đối lập, thành lập nên các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập tại Việt Nam,
tiến tới thiết lập các đảng phái chính trị mới nhằm hướng tới mục tiêu thực
hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam.
Trước hết, chúng ta khẳng định rằng: quan điểm
đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam là sai trái và
phản động, không phải là lựa chọn của tuyệt đại đa số nhân dân ta, không phải
là sự lựa chọn của lịch sử, không phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và
không có cơ sở khoa học và hiện thực. Vì
vậy, nghiên cứu nhận diện đầy đủ về mục đích, bản chất của luận điệu trên
để đấu tranh phản bác lại quan điểm sai trái trên một cách khoa học, có sức
thuyết phục là nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết, là trách nhiệm chính trị
của đội ngũ cán bộ, đảng viên, của các tổ chức đảng và của toàn xã hội.
Một là, ở Việt Nam hiện nay không cần thực hiện “đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập”.
Mục tiêu
cao nhất của con người nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng là “Độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc”. Mục
tiêu ấy đã từng trao cho tất cả các giai tầng trong xã hội, các đảng phái, các
cá nhân,… trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Và trên thực tế, các
phong trào yêu nước, các cuộc cách mạng theo các quan điểm, lập trường phi vô
sản đã được tiến hành ở Việt Nam dưới nhiều hình thức song đều thất bại. Cùng
với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, trong thế kỷ XX ở nước ta đã từng
xuất hiện và tồn tại nhiều đảng phái khác nhau như: Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt
Quốc), Việt Nam cách mệnh đồng minh hội (Việt Cách), Đảng Dân chủ Việt Nam,
Đảng Xã hội Việt Nam,… Tuy nhiên, những đảng phái khác trên thực tế đã không
vượt qua được những đòi hỏi khách quan và thử thách gay gắt của cuộc đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc và đấu tranh dân chủ. Vận mệnh và sứ mệnh lịch sử
thiêng liêng của dân tộc ta chỉ do Đảng Cộng sản Việt Nam đảm trách. Những lần
vượt qua khó khăn, thách thức đã thể hiện bản lĩnh vững vàng, trách nhiệm lớn
lao, trí tuệ tuyệt với của Đảng đối với vận mệnh của dân tộc và cuộc sống,
quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Do đó, chính lịch sử cũng đã chứng minh,
ngoài Đảng Cộng sản, không có và không thể có một đảng phái hoặc một lực lượng
chính trị nào có thể đưa ra được cương lĩnh, đường lối đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam, có thể đồng thời giải quyết những mục tiêu về dân tộc và giai cấp,
độc lập dân tộc, “ruộng đất cho dân cày” và chủ nghĩa xã hội, “ấm no, tự do,
hạnh phúc” cho nhân dân,... Tuy nhiên, lịch sử vốn rất công bằng, nhân dân luôn
là lực lượng khách quan, công bằng, chính xác nhất khi xem xét, đánh giá công
lao của các tổ chức và cá nhân với dân tộc. Và lẽ dĩ nhiên, giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam đã thống nhất lựa chọn cho mình duy nhất
một con đường đúng đắn (cách mạng xã hội
chủ nghĩa), một sự nghiệp vẻ vang (xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc), một đảng cách mạng, chân chính, duy nhất lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, (Đảng Cộng sản Việt
Nam). Trong đó, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa
chọn tất yếu của lịch sử, là sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam và phù hợp với quy luật,
phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế thời đại.
Thực tiễn
đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước ta là sự
lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của toàn thể nhân dân. Bởi lẽ, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời vừa tuân theo quy luật chung, vừa tuân theo quy luật
đặc thù phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và phù hợp với xu thế thời
đại, nó đã giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng, đáp ứng yêu
cầu thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân dân, đó là
“độc lập cho dân tộc”, “ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân”. Từ khi thành lập
và cho đến tận ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là “đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân
tộc Việt Nam”. Do vậy, ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền,
đảng duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội, đảng là bộ phận
của hệ thống chính trị và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Nhân
dân Việt Nam không muốn và không cần có một đảng phái chính trị nào khác trên
đất nước Việt Nam. Vì vậy, ở Việt Nam hiện nay không cần thực hiện “đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập”.
Hai là, ở Việt Nam nhân dân không muốn và không có cơ sở lý
luận và thực tiễn cho việc thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.
Dân chủ, phát triển, ổn định và tiến bộ là những mục tiêu thuộc về lý
tưởng của loài người, có giá trị phổ quát chung của toàn nhân loại. Tuy nhiên,
những mục tiêu này có được không đồng nghĩa với vấn đề phải nhất quyết thực
hiện “đa nguyên, đa đảng”. Và thực tế hiển nhiên là ở nhiều quốc gia trên thế
giới hiện nay đã và đang thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” cũng
không đồng nghĩa với việc ở đó sẽ có dân chủ triệt để, đất nước và con người
phát triển, chính trị ổn định và tiến bộ, công bằng xã hội được thực thi theo
đúng nghĩa. Đây là hai vấn đề không tỷ lệ thuận với nhau, không quan hệ biện
chứng với nhau, do đó, không phải là tiền đề, cơ sở bảo đảm duy nhất cho nhau
cùng tồn tại.
Thế giới
quan của “chủ nghĩa đa nguyên” là phủ nhận tính thống nhất của thế giới, cho
thế giới là sự kết hợp các nguyên thể, các yếu tố độc lập và tồn tại riêng
biệt. Họ cường điệu và thổi phồng cái riêng, coi cái riêng là cái duy nhất, cái
phong phú đa dạng và vĩnh hằng, là cái vốn có. Chủ nghĩa đa nguyên chủ yếu gắn
liền với những vấn đề xã hội, phát triển mạnh ở phương Tây và lấy xã hội tư sản
trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu làm cơ sở vật chất
để tồn tại. Họ cho rằng: xã hội luôn được chia nhỏ thành cơ số các cá thể,
nhóm, tầng lớp, tập đoàn; phân biệt nhau trong xã hội chủ yếu phải bằng tài sản
và thu nhập, tín ngưỡng, tôn giáo, đảng phái, nghề nghiệp và do đó, họ cố tình
che đậy tính chất đối kháng về lợi ích giai cấp trong xã hội, làm lu mờ vấn đề
lợi ích chung, mục tiêu chung cao đẹp của con người trong xã hội, mà chủ yếu
bảo vệ và cổ vũ cho tư tưởng cá nhân, cục bộ, ích kỷ, hẹp hòi. Cao hơn là phủ
nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng, phủ nhận đấu tranh giai cấp,
phủ nhận sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, phủ nhận vai trò của
Đảng Cộng sản trong xã hội.
Trên thực tế, nhiều nước đã và đang thực hiện cái gọi là “đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập” song thực chất xã hội cũng không phát triển, dân
chủ cũng không triệt để, đời sống vật chất và tinh thần của quảng đại quần
chúng nhân dân lao động vẫn còn rất nhiều khó khăn. Tuy một vài nước có thu
nhập bình quân đầu người cao, GDP hàng năm cao, song phần lớn tài sản và sự thụ
hưởng giá trị vật chất và tinh thần lại không thuộc về đa số nhân dân lao động,
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân mà lại nằm chủ yếu trong tay của một bộ
phận người trong xã hội - Đó là giai cấp tư sản. Một vài nước tư bản phương Tây
đang tồn tại nhiều đảng phái chính trị với tên gọi khác nhau, song thực chất
các đảng chính trị cầm quyền vẫn chỉ thuộc đảng của giai cấp tư sản mà thôi,
các chính đảng này không bảo vệ cho quyền lợi, không phản ánh nguyện vọng của
quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Do đó, khẩu hiệu “đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập” mà họ rêu rao cũng chỉ là luận điệu tuyên truyền có dụng ý
chính trị mỵ dân, thực chất ở các nước này cũng không có “đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập”.
Có thể
thấy rằng, chủ nghĩa đa nguyên là sản phẩm của giai cấp tư sản với thế giới
quan phản khoa học, là một trong những “công cụ lý luận”, “vũ khí tư tưởng” để
các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, phủ nhận vai trò duy nhất lãnh đạo
xã hội của các đảng cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận lợi
ích chung, mục tiêu chung cao cả, tốt đẹp, nhân văn; chúng đang muốn hướng lái
con người và xã hội vào chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, ích kỷ, hẹp hòi. Và do vậy,
bản thân nó không phù hợp với thực tiễn Việt Nam, bản chất nhân văn, nhân đạo
của con người Việt Nam, không có cơ sở lý luận và thực tiễn tồn tại “đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam.
Ba là, yêu cầu thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập” thực chất là âm mưu, thủ đoạn nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”
chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.
Sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa của nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục thu được những thành
tưu có ý nghĩa lịch sử, đời sống vất chất và tinh thần của nhân dân được nâng
lên rõ rệt, uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được
khẳng định vững chắc. Chính vì lẽ đó, để chống phá cách mạng Việt Nam, để ngăn
chặn và phá hoại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, hạ thấp uy tín,
vị thế, vai trò của Đảng ta, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta, các thế lực thù
địch, các phần tử cơ hội, thực dụng đã, đang và vẫn sẽ tìm mọi cách tấn công và
chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi phải thực hiện “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam.
Về mục
tiêu và bản chất của các thế lực thù địch là nhằm gây chia rẽ nội bộ từ trong
Đảng, chia rẽ và phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn về chính
trị-xã hội, tạo điều kiện, tiền đề cho việc ra đời và “công khai hóa”, “hợp
pháp hóa” các tư tưởng đối lập, hình thành và phát triển các tổ chức chính trị
đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, giành giật quần chúng và từ đó cạnh tranh
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến tới thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong đời sống chính trị, mở đường cho việc đưa nước ta đi
theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn nghiêm khắc và có trách nhiệm cao với sứ mệnh lãnh đạo của mình,
gắn vận mệnh của mình với vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Đảng không bảo thủ,
độc đoán, chuyên quyền, xa rời những nguyên lý và nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức và hoạt động của mình. Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, tập thể
lãnh đạo gắn với cá nhân phụ trách, quan hệ gắn bó máu thịt với quần chúng nhân
dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ và xứ mệnh lịch sử cao cả của mình và sứ mệnh và nhiệm vụ cao cả,
thiêng liêng nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam tin tưởng, giao
phó.
Như vậy,
xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, yêu cầu thực hiện
“đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam là phản khoa học, phi thực
tế. Nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam hiện nay và mãi mãi mai sau không muốn,
không cần thiết phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Các quan
điểm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực hiện “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở nước ta là sai trái, phản động, phải bị
lên án, đấu tranh, phê phán và bác bỏ./.
Xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, yêu cầu thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam là phản khoa học, phi thực tế. Điều đó là không thể chối cãi.
Trả lờiXóaCác quan điểm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở nước ta là hoàn toàn sai trái, phản động, phải bị lên án, đấu tranh, phê phán và bác bỏ.
Trả lờiXóaCác đối tượng phản động thường tán phát các bài viết xuyên tạc, phủ nhận Học thuyết Mác-Lênin, nói xấu Đảng, kích động người dân đấu tranh xóa bỏ Đảng CSVN. Chúng ta phải hết sức cảnh giác.
Trả lờiXóaBản chất của các thế lực thù địch là không thay đổi; chúng cổ súy cho đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, với động cơ chính trị đen tối, đó là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì vậy chúng ta phải cảnh giác
Trả lờiXóa