Tuấn Tuấn
“Tà đạo” hay “tà giáo” là hiện tượng tôn giáo không
chính thống, không chính đạo, không chính thức, không đúng đắn và không theo quy chuẩn. Các “tà đạo” thường sùng bái
và thần thánh hóa người cầm đầu, khác với tôn giáo truyền thống, đối tượng sùng
bái là những bậc thánh hiền, thần thánh hóa lãnh tụ, siêu trần, thoát thế…; tôn
giáo truyền thống phát huy được tác dụng hướng thiện, nâng đỡ cuộc sống con
người còn “tà đạo” thường có tư tưởng cực đoan, chống lại hiện thực xã hội,
thực hành lối sống phi pháp, quyên góp, bóp nặn tiền của người dân. Thời gian
qua, hoạt động của các “tà đạo” đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, văn
hóa, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong đó, đáng chú ý hoạt động của tà
đạo Thanh Hải Vô thượng sư, Hà Mòn, Dương Văn Mình, Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ
Những đặc điểm để nhận diện của các “tà đạo” Người đứng đầu, luôn tự đề cao, đánh bóng bản thân
mình, nhiều người trước khi tạo dựng “tà đạo” còn mắc bệnh tâm thần hoặc từ
nước ngoài tuyên truyền phát triển vào trong nước. Lý thuyết, “giáo lý”, “giáo
luật” được chắp vá, pha tạp, cải biên từ lý thuyết, giáo lý, giáo luật của các
tôn giáo truyền thống, đưa ra lý thuyết tôn giáo mới trái với lý thuyết tôn
giáo truyền thống. Các “tà đạo” thường ngụy tạo trong đó những tín điều trái
với thuần phong, mỹ tục của dân tộc, phản văn hóa, phản khoa học (khuyên người
ốm không dùng thuốc, chỉ cần cúng, dâng hoa, cầu nguyện, dùng “nước thánh”,
“thuốc Phật”, đập phá bàn thờ tổ tiên, kiêng tắm, kiêng quan hệ vợ chồng, không
sinh con cái…); mê hoặc quần chúng, lợi dụng các tà thuyết về “ngày tận thế”
hoặc gắn với các nhu cầu về sức khỏe để lôi kéo, mê hoặc, khống chế tinh thần,
chi phối hoạt động đối với người tin theo; xuyên tạc lịch sử, nói xấu xã hội
thực tại; khuyên người tin theo thực hành những luật lệ trái với lẽ tự nhiên,
ảnh hưởng tới đời sống xã hội, thân xác con người, thực hành lối sống phi pháp,
phi nhân tính. Mục đích sâu xa của các “tà đạo” là vì lợi ích của “giáo chủ” và
các đối tượng cốt cán, tay chân của chúng thông qua những hành vi: thu lệ phí
vào đạo, bán sắc phong, thẻ ngọc, điệp quy, bùa, kinh sách, thuốc chữa bệnh
trái phép; khuyếch trương thanh thế bằng những luận điệu tuyên truyền mê hoặc
quần chúng; lợi dụng, thổi phồng các vấn đề bức xúc của xã hội, công kích xã
hội đương thời và chính quyền, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, mê hoặc
lòng người, lôi kéo quần chúng gây rối trật tự an ninh xã hội; công kích, nói
xấu các tôn giáo đã được nhà nước công nhận. Thực hành các nghi lễ mang yếu tố
mê muội, mê tín dị đoan, lừa bịp người dân tin theo, phản khoa học, trái với
những nghi lễ truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc… Đặc biệt
là thần thánh hóa lãnh tụ, các bậc thánh hiền, danh nhân, anh hùng dân tộc… Phương
thức hoạt động “bí mật” là cách thể hiện chung của các “tà đạo”, lẩn tránh sự
quản lý của Nhà nước, thường xuyên thay đổi địa điểm tránh sự phát hiện, xử lý
của chính quyền; lợi dụng sơ hở của pháp luật trong việc quản lý của chính
quyền cơ sở để tuyên truyền phát triển “tà đạo” trái pháp luật; tán phát tài
liệu tuyên truyền ở những nơi công cộng, nơi tập trung đông dân cư; tập luyện
“dưỡng sinh” ở công viên, quảng trường, vườn hoa, trường học; lợi dụng những
vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức còn thấp,
điều kiện sống, chăm sóc sức khỏe còn khó khăn để lừa bịp, lôi kéo, khống chế…
Đối tượng tin theo phần lớn là những người gặp rủi ro, bế tắc trong cuộc sống,
ốm đau, bệnh tật, nghèo khó; những người có trình độ văn hóa thấp, ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; hoặc người nhẹ dạ, cả tin, phụ nữ, học
sinh, sinh viên và người già…
Những tác hại đối với đời sống xã hội của các “tà đạo”
Sự xuất hiện “tà đạo” ở nước ta trong những năm gần đây, phần nào cũng là liều thuốc tinh thần trong một số người có hoàn cảnh éo le, rủi ro. Những người đó dựa vào “tà đạo” và hy vọng được nâng đỡ, an ủi về mặt tinh thần. Tuy nhiên, những ảnh hưởng tiêu cực của “tà đạo” đến đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, trật tự an toàn xã hội là rất rõ nét. Dễ dàng nhận thấy, hoạt động của “tà đạo” về bản chất là tuyên truyền mê tín dị đoan, gây ảnh hưởng xấu tới đời sống xã hội. Đây là ảnh hưởng rõ nhất và rộng nhất đến đời sống của một bộ phận quần chúng nơi có “tà đạo” xuất hiện. Trong cái gọi là “kinh thánh”, nghi lễ của “tà đạo” chứa đựng nhiều yếu tố mê tín dị đoan, lừa gạt quần chúng như: tuyên truyền về “ngày tận thế”, tự xưng là “con trời”, “phật tái thế”, “đức cha, đức mẹ” nhập vào, là cháu, chắt của các vị thần thánh, tiên phật được cử xuống trần gian cứu vớt quần chúng khỏi họa diệt chủng; khuyên mọi người phải tín tâm đọc kinh sách của đạo, không cần phải lao động nhiều, chỉ cần siêng năng cầu nguyện, xin lộc là đủ, phải tập bay, hành xác, khất thực, đốt bỏ tài sản, thực hành nghi lễ phản văn hóa. Trong thực tế, không ít người tham gia các “tà đạo”, trở nên mê muội, không còn khả năng nhận thức thực tế một cách khách quan. Một số người hoạt động trong các “tà đạo” còn trở thành “thầy lang” chữa bách bệnh cho những người tin theo. Phương pháp chữa bệnh của họ đậm màu sắc mê tín, phản khoa học, làm tổn hại tới sức khỏe, thậm chí dẫn đến chết người do mê muội tin vào cách chữa bệnh đặc biệt của một số người sáng tạo ra “tà đạo”. Trên lĩnh vực kinh tế, những người cầm đầu hoặc có vai trò đáng kể trong các “tà đạo”, đã có hành vi thu tiền trái phép của những người theo tin theo. Người theo “tà đạo” không quan tâm đầu tư, lao động sản xuất, kinh doanh đảm bảo cuộc sống gia đình, phát triển xã hội. Họ mê muội nghe theo những lời phán truyền của những đối tượng cầm đầu rằng, theo đạo mới sung sướng, chỉ cần cầu cúng, học đạo là sẽ có ăn. Không những thế, những người cầm đầu còn thường xuyên tổ chức các cuộc thăm viếng, cúng lễ ở nhiều nơi gây tốn kém về thời gian, tiền bạc của người tin theo. Một số “tà đạo” thực hành nghi lễ phản hóa như: cởi bỏ quần áo, đập bỏ bàn thờ gia tiên, sinh hoạt tình dục bừa bãi. Có “tà đạo” thực hành nghi lễ mang tính chất phi nhân tính, kỳ quặc như: tự chặt ngón tay để bỏ đi một phần thể xác cho siêu thoát; tự hành hạ thể xác như đánh vào thân thể mình; kích động tín đồ ở tự vẫn tập thể; kiêng tắm rửa; kiêng quan hệ vợ chồng; không sinh con cái… Những những hành vi đó của một số “tà đạo” đã gây lo lắng, hoang mang trong một bộ phận nhân dân. Trong khi đất nước ta đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì những hoạt động của “tà đạo” là sự cản trở không nhỏ khiến cho đông đảo người dân bất bình, phản đối. Ngoài những hậu quả tiêu cực về sức khỏe, tinh thần, xâm phạm tài sản và nhân phẩm con người, về trật tự xã hội, tuyên truyền mê tín dị đoan mà các “tà đạo” trực tiếp hay gián tiếp gây ra, “tà đạo” còn làm nảy sinh những mâu thuẫn ngay trong từng gia đình, dòng họ, những người theo và không theo đạo./.
Những tác hại đối với đời sống xã hội của các “tà đạo”
Sự xuất hiện “tà đạo” ở nước ta trong những năm gần đây, phần nào cũng là liều thuốc tinh thần trong một số người có hoàn cảnh éo le, rủi ro. Những người đó dựa vào “tà đạo” và hy vọng được nâng đỡ, an ủi về mặt tinh thần. Tuy nhiên, những ảnh hưởng tiêu cực của “tà đạo” đến đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, trật tự an toàn xã hội là rất rõ nét. Dễ dàng nhận thấy, hoạt động của “tà đạo” về bản chất là tuyên truyền mê tín dị đoan, gây ảnh hưởng xấu tới đời sống xã hội. Đây là ảnh hưởng rõ nhất và rộng nhất đến đời sống của một bộ phận quần chúng nơi có “tà đạo” xuất hiện. Trong cái gọi là “kinh thánh”, nghi lễ của “tà đạo” chứa đựng nhiều yếu tố mê tín dị đoan, lừa gạt quần chúng như: tuyên truyền về “ngày tận thế”, tự xưng là “con trời”, “phật tái thế”, “đức cha, đức mẹ” nhập vào, là cháu, chắt của các vị thần thánh, tiên phật được cử xuống trần gian cứu vớt quần chúng khỏi họa diệt chủng; khuyên mọi người phải tín tâm đọc kinh sách của đạo, không cần phải lao động nhiều, chỉ cần siêng năng cầu nguyện, xin lộc là đủ, phải tập bay, hành xác, khất thực, đốt bỏ tài sản, thực hành nghi lễ phản văn hóa. Trong thực tế, không ít người tham gia các “tà đạo”, trở nên mê muội, không còn khả năng nhận thức thực tế một cách khách quan. Một số người hoạt động trong các “tà đạo” còn trở thành “thầy lang” chữa bách bệnh cho những người tin theo. Phương pháp chữa bệnh của họ đậm màu sắc mê tín, phản khoa học, làm tổn hại tới sức khỏe, thậm chí dẫn đến chết người do mê muội tin vào cách chữa bệnh đặc biệt của một số người sáng tạo ra “tà đạo”. Trên lĩnh vực kinh tế, những người cầm đầu hoặc có vai trò đáng kể trong các “tà đạo”, đã có hành vi thu tiền trái phép của những người theo tin theo. Người theo “tà đạo” không quan tâm đầu tư, lao động sản xuất, kinh doanh đảm bảo cuộc sống gia đình, phát triển xã hội. Họ mê muội nghe theo những lời phán truyền của những đối tượng cầm đầu rằng, theo đạo mới sung sướng, chỉ cần cầu cúng, học đạo là sẽ có ăn. Không những thế, những người cầm đầu còn thường xuyên tổ chức các cuộc thăm viếng, cúng lễ ở nhiều nơi gây tốn kém về thời gian, tiền bạc của người tin theo. Một số “tà đạo” thực hành nghi lễ phản hóa như: cởi bỏ quần áo, đập bỏ bàn thờ gia tiên, sinh hoạt tình dục bừa bãi. Có “tà đạo” thực hành nghi lễ mang tính chất phi nhân tính, kỳ quặc như: tự chặt ngón tay để bỏ đi một phần thể xác cho siêu thoát; tự hành hạ thể xác như đánh vào thân thể mình; kích động tín đồ ở tự vẫn tập thể; kiêng tắm rửa; kiêng quan hệ vợ chồng; không sinh con cái… Những những hành vi đó của một số “tà đạo” đã gây lo lắng, hoang mang trong một bộ phận nhân dân. Trong khi đất nước ta đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì những hoạt động của “tà đạo” là sự cản trở không nhỏ khiến cho đông đảo người dân bất bình, phản đối. Ngoài những hậu quả tiêu cực về sức khỏe, tinh thần, xâm phạm tài sản và nhân phẩm con người, về trật tự xã hội, tuyên truyền mê tín dị đoan mà các “tà đạo” trực tiếp hay gián tiếp gây ra, “tà đạo” còn làm nảy sinh những mâu thuẫn ngay trong từng gia đình, dòng họ, những người theo và không theo đạo./.
Người dân không nên tin các tà đạo
Trả lờiXóa