Hồng
Ánh
Thực
thi quyền lực và kiểm soát quyền lực là để bảo đảm quyền lực luôn được sử dụng
đúng người, đúng mục đích, nhất là đối với những cán bộ, đảng viên có chức
quyền, nhằm ngăn ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của người được trao quyền -
một trong những nguy cơ, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Vì thế, V.I.
Lênin và Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm vấn đề kiểm soát quyền lực để phòng
chống sự suy thoái trong Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Quyền lực và cách thức để kiểm
soát quyền lực
Quyền lực “là quyền hành và thế
lực mạnh, đủ để quyết định các công việc: nắm quyền lực trong tay- dùng quyền
lực ép người ta phải nghe theo, làm theo”; còn kiểm soát quyền lực là “kiểm
tra, xem xét, nhằm ngăn ngừa những sai phạm các quy định” và đặt quyền lực
“trong phạm vi quyền hành và trách nhiệm” của những người đã được
giao/phân công/ủy nhiệm thực thi quyền lực.
Với một chính đảng đã cầm
quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên ưu tú
được giao/phân công/ủy nhiệm các chức vụ trong Đảng, các cơ quan Nhà nước, hệ thống chính trị.
Vì thế, để ngăn ngừa, phòng và chống sự lạm dụng, tha hóa, trục lợi vì quyền
lực dẫn đến làm mất đi tính tiên phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên, của Đảng
cách mạng, rất cần phải kiểm soát quyền lực trong Đảng. Việc kiểm soát quyền
lực của các tổ chức, các cán bộ, đảng viên có chức vụ trong các tổ chức Đảng,
bộ máy Nhà nước, hệ thống chính trị không chỉ nhằm ngăn chặn, phòng và chống sự
tha hóa quyền lực mà còn để thực hiện dân chủ, phát huy dân chủ, làm cho nguyên
tắc tập trung dân chủ trong Đảng được thực thi nghiêm túc.
Để kiểm soát quyền lực trong
Đảng, cả V.I.Lênin và Hồ Chí Minh cùng yêu cầu thực hiện theo hai cách thức chủ
yếu: 1) Thường xuyên, nghiêm túc tự phê bình và phê bình;
2) Chú trọng thực hiện công tác kiểm tra và giám sát.
Theo V.I.Lênin, “chỉ có kẻ nào
không làm một công việc thực tiễn nào mới không bị sai lầm”, “những sai lầm
thường khi lại bổ ích, nếu người ta học tập được về những sai lầm đó, nếu những
sai lầm đó tôi luyện con người” và “sai lầm cũng dạy chúng ta nhiều bài học…,
chúng ta sẽ học tập bằng tự phê bình”. Nhấn mạnh nguyên tắc: “Tự phê bình là
một việc tuyệt đối cần thiết cho hết thảy mọi chính đảng sống và đầy sức sống.
Không gì tầm thường bằng chủ nghĩa lạc quan tự mãn”, V.I. Lênin chỉ rõ: “Tất cả
những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho đến nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự
đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không
dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ không bị tiêu
vong, vì chúng ta không sợ nói lên những nhược điểm của chúng ta, và những
nhược điểm đó, chúng ta sẽ học được cách khắc phục”. Vì thế, phải “công khai
thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra sai
lầm”, để kịp thời sửa chữa, khắc phục khuyết điểm
Đồng thời, nhấn mạnh vai trò
kiểm soát quyền lực nội bộ Đảng, đặc biệt là kiểm soát quyền lực của các cơ
quan Ban Chấp hành, V.I.Lênin đề xuất thành lập Ủy ban Kiểm tra của Đảng và các
cơ quan này phải có vị trí tương đương như các Ban Chấp hành, để có thể kiểm
soát được quyền lực tối cao của Đảng; góp phần thực thi việc chất vấn trong
Đảng, đảm bảo cho dân chủ trong Đảng được thực thi và phát huy tác dụng thực
chất.
Để kiểm soát quyền lực, Hồ Chí
Minh cũng nhấn mạnh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng
hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì
đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm
mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn,
chắc chắn, chân chính”. Ở đây, sự “tự cao tự đại”, “không dám nói lên những
nhược điểm”, “giấu giếm khuyết điểm của mình” theo V.I. Lênin và Hồ Chí Minh
cũng chính là những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, là sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" của tổ chức Đảng và những người có chức quyền trong Đảng.
Vì vậy, để trong sạch, vững mạnh, Đảng và mỗi cán bộ đảng viên cần phải tự giác
thừa nhận sai lầm, “nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa sai lầm ấy,
đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là đảng làm tròn những nghĩa vụ
của mình”. Tổ chức “kiểm thảo phải khởi đầu từ cấp trên, dần
dần đến cấp dưới. Cán bộ cấp trên phải làm gương mẫuthật thà tự
phê bình, phải hoan nghênh khuyến khích mọi người phê bình mình, tức là phải
thực hiện dân chủ rộng rãi. Từ trên xuống, rồi từ dưới lên. Cán bộ cấp trên
phải trực tiếp lãnh đạo từ lúc chuẩn bị cho đến lúc kết thúc
cuộc kiểm thảo. Trong kiểm thảo, phải nêu rõ ưu điểm và khuyết điểm, làm cho
việc phải trái rõ ràng, làm cho mọi người hiểu rõ và vui vẻ thừa nhận”.
Trong thực thi quyền lực, cán bộ, đảng viên nói chung, người
lãnh đạo, quản lý, đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng phải công
tâm, kỷ luật, tự giác, thẳng thắn, triệt để trong tự phê bình và phê bình theo
đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Đồng thời, phải hết sức chú trọng công tác
kiểm tra, giám sát; phải coi kiểm tra và giám sát là điểm xuất phát, là khâu
trung tâm trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của
công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh cùng cho
rằng: “Kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc chấp hành thực tế công tác
- mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn
ở đấy và chỉ có ở đấy”, cho nên phải thường xuyên “kiểm tra mới huy động
được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết
rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ
kịp thời”. Thực tế cho thấy, “kiểm tra không nên chỉ bằng cứ vào các tờ báo
cáo, mà phải đi đến tận nơi”… do đó, phải kiểm tra tại cơ sở, phải thông qua
công tác kiểm tra để xem "những nghị quyết đó đã thực hành được đến đâu,
có những sự khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không",
để vừa phát huy ưu điểm, phát hiện cái mới, cái tốt hơn nhằm điều chỉnh phương
thức lãnh đạo sát hợp hơn; đồng thời, ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện quan
liêu, xa dân, không sâu sát thực tiễn trong phong cách công tác của đội
ngũ cán bộ, đảng viên, của người đúng đầu.
Để công tác kiểm tra và giám
sát góp phần làm cho việc kiểm soát quyền lực được thực thi hiệu quả, Hồ Chí
Minh yêu cầu: “Các ủy ban và cán bộ kiểm tra phải học tập và thấm nhuần đường
lối, quan điểm của Đảng, phải luôn luôn chú ý nâng cao khả năng chuyên môn,
phải cố gắng công tác, phải trau dồi đạo đức cách mạng. Đặc biệt là phải
nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình để
làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật. Phải chí công vô tư, không thiên
vị, không thành kiến. Như thế thì mới làm tốt được công tác kiểm tra”. Trong
đó, tự người lãnh đạo phải tiến hành việc kiểm tra; phải tổ chức một nhóm cán
bộ nhiều kinh nghiệm, giàu năng lực để giúp người lãnh đạo đi kiểm tra; đồng
thời người đi kiểm tra phải nâng cao trách nhiệm công tác, “ai đi kiểm tra việc
gì, nơi nào nếu có sơ suất thì người ấy phải chịu trách nhiệm”. Thông qua công
tác kiểm tra, giám sát hiệu quả, góp phần ngăn ngừa những biểu hiện hách dịch,
cửa quyền, lạm quyền, lộng quyền, tham nhũng, tiêu cực, v.v.. gây bức xúc trong
nhân dân, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ của đội ngũ cán bộ, đảng
viên tại các cơ quan công quyền.
Cả V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đều
khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân đối với việc kiểm soát quyền
lực trong Đảng. Cụ thể, V.I.Lênin yêu cầu cần phải “không chỉ thường xuyên
triệu tập các cuộc họp toàn thể cho quần chúng công nông, mà còn phải thường
xuyên tổ chức những cuộc báo cáo công tác của tất cả các cán bộ đảm nhiệm mọi
chức vụ trước quần chúng công nông. Những cuộc báo cáo này phải tiến hành ít
nhất mỗi tháng một lần để quần chúng công nhân và nông dân ngoài đảng có điều
kiện phê bình các cơ quan Xôviết và công tác của các cơ quan đó. Không phải chỉ
có các đảng viên cộng sản mà tất cả những người có chức trách ở mọi cương vị
quan trọng…, đều phải tiến hành những báo cáo như vậy”. Còn Hồ Chí Minh thì
nhấn mạnh, các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội cần phải phối hợp, kết hợp trong kiểm tra, giám sát, để
thông qua quá trình phối hợp đó “ra sức làm cho mọi người tăng thêm lòng tự tin
(tin chắc mình phát triển được ưu điểm, sửa đổi được khuyết điểm) khiến mọi
người khoan khoái, vui vẻ, hăng hái, để tiếp tục công tác và tiến bộ mãi”.
Kiểm soát quyền lực để phòng và
chống sự suy thoái của đội ngũ cán bộ, đảng viên
Trong những năm qua,
thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các Nghị quyết Trưng ương 4 khóa XI,
XII về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, việc nhận diện đúng về quyền lực,
tha hóa quyền lực, kiểm soát quyền lực để ngăn chặn, phòng và chống sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" của đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản
lý đến đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp đã được triển khai từ
Trung ương đến cơ sở.
Có thể nói, cùng với
việc "tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát
quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương” theo Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng, “các cấp ủy, tổ chức Đảng chỉ đạo rà soát, hoàn
thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi
quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm
đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công
đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm”;
đồng thời “xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác
cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ
chế; quyền hạn, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm” theo Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4, 7 khóa XII đã cho thấy vấn đề kiểm soát quyền lực được chú
trọng thực hiện, từng bước đem lại kết quả rõ rệt.
Trong đó, dấu ấn đậm nét nhất
chính là tại các cấp ủy Đảng: thông qua tự phê bình và phê bình, kiểm tra và
giám sát đã kịp thời phát hiện và tiến hành đúng trình tự để xử lý kỷ luật đảng
viên vi phạm pháp luật về tham ô, tham nhũng, v.v.. Công tác kiểm tra, giám sát
việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý
được thực thi nghiêm túc. Việc xây dựng, ban hành nhiều văn bản pháp luật về
phòng, chống tham nhũng đã từng bước khắc phục những sơ hở, bất cập trong các
quy định của pháp luật… Công tác phòng, chống sự tha hóa quyền lực, suy thoái
về đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong
nội bộ Đảng đã và đang cho thấy, việc xây dựng cơ chế và quá trình kiểm
soát quyền lực được đẩy mạnh. Cùng với đó, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã mở
rộng phạm vi, đối tượng kiểm tra xuống đến cấp ủy cấp huyện và cơ sở, đã phát
hiện và xử lý nhiều vụ án tham nhũng, từng bước khắc phục tình trạng “trên nóng
dưới lạnh”. Đồng thời, các cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tập trung kiểm
tra, xử lý nghiêm các tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; xử lý
nghiêm cả cán bộ đương chức, nghỉ hưu và cán bộ cấp cao; kỷ luật từ trên xuống
dưới "không có vùng cấm", "không có trường hợp ngoại lệ"...
góp phần củng cố niềm tin của nhân dân như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng nhấn mạnh.
Việc đăng ký, tự soi theo 27 biểu hiện suy thoái (9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; 9 biểu hiện về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ) theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII ở các cấp ủy (thông qua công tác tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát) vẫn cho thấy: ở đâu đó, với quyền lực được giao phó, sự suy thoái của bộ phận cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ cao cấp vẫn đang diễn ra, không chỉ gây bức xúc trong nhân dân mà còn ảnh hưởng đến uy tín của Đảng cầm quyền.
Trong thực tế: 1) Sự suy
thoái ở bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền này là coi thường
kỷ luật, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt Đảng; coi thường nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách” với các biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, sử dụng đặc quyền, đặc lợi để
lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm tham ô, tham nhũng, mưu cầu cho cá
nhân và nhóm lợi ích; ngày càng quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn,
bức xúc của nhân dân; trục lợi từ chức quyền để chạy dự án, chạy tuổi,
chạy quy hoạch, chạy chức cho mình và người thân… 2) Sự suy thoái ở
bộ phận đảng viên chưa hoặc không được giao các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong
Đảng và chính quyền mà chỉ chịu trách nhiệm cá nhân khi thực hiện các nhiệm vụ
đảng viên thì thường là các biểu hiện thiếu niềm tin và nghi ngờ vai trò lãnh
đạo của Đảng; phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội; bàng quan, thiếu tinh thần và quyết tâm phấn đấu, vượt gian khổ,
khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không gương mẫu giữa nói và làm,
v.v..
Từ chỉ dẫn của V.I Lênin và Hồ
Chí Minh về yêu cầu và biện pháp để thực hiện kiểm soát quyền lực trong Đảng và
hệ thống chính trị hiệu quả, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã
khẳng định phải tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm soát
quyền lực. Cụ thể, “phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm soát việc thực thi
quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc mọi quyền lực đều
phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc với
trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao, trách
nhiệm càng lớn”; phải đồng thời tiến hành kiểm tra ngang và kiểm tra dọc, từ
trên xuống và từ dưới lên; phải phát huy vai trò của nhân dân trong công tác
kiểm tra và giám sát; từng đoàn thể phải xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm tra,
giám sát, chống lạm quyền, trục lợi từ quyền lực đảm bảo hiệu quả... Trên tinh thần đó, trong thời gian tới, cấp ủy các cấp
cần tập trung thực hiện những giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng, coi thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII và các Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương khoá XI về “Những điều đảng viên không được làm”, Quy định 101-QÐ/TW
của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, Quy định
55-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần làm ngay để tăng
cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên” và Quy định số 08-QĐi/TW
của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương” gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính
trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh” theo chương trình toàn khóa và chủ đề hằng năm là giải pháp căn cốt để thực hiện kiểm soát quyền lực
trong Đảng, trong cả hệ thống chính trị.
Hai là, chú trọng và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo chuyên
đề; trong đó, căn cứ theo bản đăng ký của mỗi cấp ủy và cá nhân về phòng và
chống các biểu hiện suy thoái theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII gắn với nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh để triển khai đồng bộ, hiệu quả các biện pháp về tự phê
bình và phê bình, kiểm tra, giám sát theo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa “xây
và chống, lấy xây là chính”. Cụ thể, "thường xuyên và nghiêm chỉnh
thực hiện tự phê bình và phê bình" theo Di chúc đi liền
với tăng cường giám sát và kiểm tra, thực hiện kỷ luật trong Đảng theo phương
châm “trên trước, dưới sau”, “từ trong ra, từ ngoài vào”, “từ trên xuống, từ
dưới lên”. Nâng cao chất lượng, hiệu quả tự phê bình và phê bình, kiểm tra và
giám sát theo nguyên tắc dân chủ, khách quan, trung thực, đầy đủ gắn với tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát công
tác lãnh đạo, quản lý nói chung và kiểm tra, kiểm soát đội ngũ cán
bộ, đảng viên có chức, có quyền nói riêng theo định kỳ và đột xuất, với sự
giám sát của quần chúng nhân dân và đảng viên ở nơi công tác và địa bàn cư trú.
Ba là, “phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp”, tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, giữa các cơ quan lãnh đạo
của Đảng ở từng cấp và giữa các cấp, từ trên xuống và từ dưới lên, bảo đảm sự
kiểm soát nhiều chiều. Tăng cường giám sát và kiểm tra đội ngũ cán bộ, đảng
viên đối với việc thực hiện quyền lực trong Đảng thông qua những quy định, quy
chế nghiêm ngặt. Phải coi kiểm soát quyền lực là kỷ luật của Đảng; đảm bảo quy
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp ủy, cá nhân trong cấp ủy và từng
vị trí lãnh đạo; công khai các quy định, quy chế về kiểm soát quyền lực để mọi
cán bộ, đảng viên đều phải nghiêm túc thực hiện, không có ngoại lệ. Theo đó,
mỗi cơ quan, tổ chức Đảng, mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên được trao quyền
đều phải gương mẫu đi đầu trong việc kiểm soát quyền lực được giao theo đúng
quy định của Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ Đảng. Đồng thời, Đảng phải
tăng cường cơ chế “tự kiểm soát” thông qua các sinh hoạt Đảng, tự phê bình và
phê bình, qua hoạt động kiểm tra, giám sát, chất vấn, giải trình từ các tổ chức
cơ sở Đảng đến Ban Chấp hành Trung ương; tăng cường giám sát việc thực hiện
quyền lực của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội; tạo cơ chế
để các tổ chức trong hệ thống chính trị giám sát trở lại việc thực thi quyền
lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên và của Đảng gắn với khen thưởng và kỷ
luật nghiêm minh, để thông qua đó củng cố và tăng cường khối đoàn kết thống
nhất trong mỗi tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị.
Bốn là,
cùng với việc thực hiện nghiêm theo đúng quy định của Hiến pháp, pháp luật, Điều
lệ và kỷ luật Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải “tự kiểm soát mình”, xây dựng và
rèn luyện cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng để: 1) Kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; 2) Kiên
tâm tự đề kháng và miễn dịch trước “bả vinh hoa của quyền lực,
chức quyền”; trước những tác động tiêu cực từ những thông tin xấu độc, sự chống
phá của các thế lực thù địch, phản động, phòng và chống "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa"; 3) Kiên trì tu dưỡng để "thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư",
phòng và chống chủ nghĩa cá nhân gắn liền với nỗ lực học tập, nghiên cứu nâng
cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ để bồi đắp, hoàn thiện mình, xứng
đáng là “người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân” như Hồ Chí
Minh căn dặn trong Di chúc. Thông qua đó, không
chỉ nhận diện rõ những biểu hiện lạm dụng, trục lợi từ quyền lực, tha hóa bởi
quyền lực dẫn tới sự suy thoái của cán bộ, đảng viên để đấu tranh quyết liệt,
có hiệu quả với các việc làm sai trái mà còn kịp thời xử lý và đưa ra khỏi Đảng
những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, bất kể đó là ai, ở vị trí công tác
nào; đồng thời, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý, người
đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị trên tinh thần chức vụ càng cao càng
phải gương mẫu, tiền phong trong thực thi quyền lực.
Trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, Đảng viên phải có nhiệm vụ đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị; để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Trả lờiXóa