Đại thắng mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao
là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đánh dấu sự kết thúc một thời kỳ lịch sử đau
thương của dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới-kỷ nguyên
độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Song từ đó đến nay, các
thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách xuyên tạc,
bôi nhọ chiến thắng vĩ đại này của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, đấu tranh bóc trần
những luận điệu dối trá, xuyên tạc lịch sử bằng các chứng cứ lịch sử, trong đó
có những lời thú nhận của chính phía đối phương tham chiến và đánh giá của các
nhà nghiên cứu phương Tây, để qua đó khẳng định giá trị và ý nghĩa thời đại của
Đại thắng mùa xuân năm 1975.
Thực tế từ sau năm 1975 đến nay, câu
hỏi “Tại sao Mỹ thất bại ở Việt Nam?” vẫn làm đau đầu các nhà chiến lược chính
trị, quân sự của Mỹ và các nước phương Tây. Nhiều nhà lãnh đạo, chính khách ở
Mỹ đã cố tình che giấu sự thật, tìm cách lý giải, biện minh cho âm mưu, thủ
đoạn đen tối của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và buộc tội cho
chính “cộng sản Việt Nam” gây ra. Có những kẻ hiếu chiến cho rằng: “Hoa Kỳ thất
bại trong chiến tranh vì đã không thực sự cố gắng, không giữ được cho mình uy
quyền và sức mạnh”; “không biết đẩy mạnh leo thang chiến tranh” để “đưa Việt
Nam trở về thời kỳ đồ đá!”. Không ít học giả Mỹ và phương Tây lại đưa ra lý lẽ
để biện minh cho nguyên nhân thất bại cay đắng này của Mỹ ở Việt Nam là “do
quân đội Mỹ bị đưa đến chiến trường châu Á xa xôi, đầy cạm bẫy, gian nan”.
Song, cũng có rất nhiều chính khách, nhà quân sự, nhà nghiên cứu đã quyết lần
tìm và bóc trần sự thật này.
Lời tự thú thất bại cay đắng của Mỹ
trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với chứng cứ không thể rõ ràng, thuyết
phục hơn từ chính những nhà chiến lược quân sự và nhiều tướng lĩnh lừng danh
của nước Mỹ từng can dự vào cuộc chiến vô cùng tàn khốc này. Chúng ta hãy đọc
một cuốn hồi ký viết về chiến tranh có tựa đề “Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch
và những bài học về Việt Nam” của Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ
dưới thời Tổng thống Johnson và Nixon, do Nhà xuất bản Random House phát hành
tháng 4-1975, đúng vào dịp quân và dân ta đang tiến hành cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong cuốn hồi ký chỉ ra
11 nguyên nhân gây nên thảm họa cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ can dự vào cuộc chiến
ở Việt Nam, trong đó có các nguyên nhân: Mỹ đã đánh giá thấp sức mạnh của cuộc
đấu tranh hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của CNXH; sự thiếu hiểu biết của
Mỹ về lịch sử, văn hóa và chính trị của nhân dân Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt
Nam; sự nhìn nhận, đánh giá sai về sức mạnh sâu thẳm nhất của một dân tộc không
nằm ở mũi nhọn quân sự mà ở sự đoàn kết của dân tộc đó... Cựu Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ phải công khai thừa nhận: “... Chúng tôi (tức Chính phủ Mỹ) đã sai
lầm, sai lầm khủng khiếp”. Đây chính là một trong những lời thú nhận thất bại
cay đắng chưa từng có trong lịch sử đưa quân đội tham chiến ở ngoài nước Mỹ.
Lời thú nhận về nguyên nhân thất bại trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam còn được dẫn liệu trong cuốn hồi ký “Tường trình của một quân nhân” của Đại tướng, nguyên Tổng tư lệnh Quân đội Mỹ giai đoạn 1964-1968 (nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh, phát hành năm 1988), trong đó có đoạn viết: “Lịch sử rất có thể đánh giá rằng nhảy vào Việt Nam là một trong những sai lầm lớn nhất của đất nước Mỹ”. Nhà sử học Stanley Karnow là một trong số ít các phóng viên nước ngoài có mặt ở Việt Nam từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh đã viết cuốn sách “Vietnam A History”, được coi như một cuốn sử về nước Việt Nam hiện đại. Ông khái quát rất cô đọng và thấm thía về sự sai lầm của các Chính phủ Mỹ đương thời là “xuất phát từ sự không hiểu biết gì về lịch sử Việt Nam, một lịch sử dài và đau đớn những cuộc chiến, những xung đột và điều chỉnh đã tạo cho người Việt Nam một ý thức sâu sắc về dân tộc họ. Cũng những xung đột và điều chỉnh ấy đã làm nên một đảng tiên phong bản lĩnh và trí tuệ, luôn biết đổi mới kịp thời vào những thời điểm quyết định với nỗ lực và kỳ vọng được đồng hành cùng đất nước”. Chính vì những sai lầm và thiếu hiểu biết của Mỹ về lịch sử, văn hóa, chính trị ở nước Việt Nam mà các đời Tổng thống Mỹ khi đó đã đẩy nước Mỹ sa lầy trầm trọng vào một cuộc chiến tranh phi nghĩa khi tiến hành chiến tranh xâm lược một đất nước với tiềm lực kinh tế, quân sự thua kém rất nhiều lần so với cường quốc Hoa Kỳ. Vậy xin viện dẫn lời của tướng Maxwell Taylor, cựu Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn và cũng từng là cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ L.B. Johnson, đã phải thốt lên rằng: “Tất cả chúng ta đều có phần của mình trong thất bại của Mỹ ở Việt Nam và chẳng có gì là tốt đẹp cả. Chúng ta không hề có một anh hùng nào trong cuộc chiến tranh này, mà chỉ toàn là một lũ ngu xuẩn. Chính tôi cũng nằm trong số đó” (Báo Mỹ “Sao và vạch”, ngày 14-5-1975). Đúng vậy, một đất nước được thế giới coi là rất hùng mạnh, lại đem quân đi xâm lược một quốc gia có độc lập, chủ quyền, lại kém mình gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế và quân sự, thì làm gì có anh hùng, như lời tự vấn của tướng Maxwell Taylor. Những lời thú nhận của các chính khách, các nhà lãnh đạo, cùng nhiều tướng lĩnh Mỹ và phản ánh của các phóng viên chiến trường ở một số hãng thông tấn nổi tiếng các nước phương Tây đã góp phần bóc trần sự thật về một cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” mà chính phủ Mỹ đương thời đã dã tâm tiến hành trong hàng chục năm chống nhân dân Việt Nam. Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã khép lại cánh cửa chủ nghĩa thực dân mới, làm tiêu tan mọi mưu đồ thâm hiểm của các thế lực thù địch hòng thôn tính, đô hộ, nô dịch, ngăn cản sự phát triển mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Đó là kết quả của biết bao sự tích lũy, trải nghiệm của cách mạng, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự hy sinh to lớn của cả dân tộc, của các thế hệ, của sức mạnh tổng hợp và tổng lực của toàn dân, toàn quân ta. Khẳng định chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Đại thắng mùa xuân năm 1975, để nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc chân chính, tạo nguồn động lực cho sự phát triển mới của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chứ không nhằm khoét sâu, làm đau đớn thêm vết thương chiến tranh do cuộc chiến phi nghĩa, tàn bạo mà đế quốc Mỹ gây ra.
Lời thú nhận về nguyên nhân thất bại trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam còn được dẫn liệu trong cuốn hồi ký “Tường trình của một quân nhân” của Đại tướng, nguyên Tổng tư lệnh Quân đội Mỹ giai đoạn 1964-1968 (nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh, phát hành năm 1988), trong đó có đoạn viết: “Lịch sử rất có thể đánh giá rằng nhảy vào Việt Nam là một trong những sai lầm lớn nhất của đất nước Mỹ”. Nhà sử học Stanley Karnow là một trong số ít các phóng viên nước ngoài có mặt ở Việt Nam từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh đã viết cuốn sách “Vietnam A History”, được coi như một cuốn sử về nước Việt Nam hiện đại. Ông khái quát rất cô đọng và thấm thía về sự sai lầm của các Chính phủ Mỹ đương thời là “xuất phát từ sự không hiểu biết gì về lịch sử Việt Nam, một lịch sử dài và đau đớn những cuộc chiến, những xung đột và điều chỉnh đã tạo cho người Việt Nam một ý thức sâu sắc về dân tộc họ. Cũng những xung đột và điều chỉnh ấy đã làm nên một đảng tiên phong bản lĩnh và trí tuệ, luôn biết đổi mới kịp thời vào những thời điểm quyết định với nỗ lực và kỳ vọng được đồng hành cùng đất nước”. Chính vì những sai lầm và thiếu hiểu biết của Mỹ về lịch sử, văn hóa, chính trị ở nước Việt Nam mà các đời Tổng thống Mỹ khi đó đã đẩy nước Mỹ sa lầy trầm trọng vào một cuộc chiến tranh phi nghĩa khi tiến hành chiến tranh xâm lược một đất nước với tiềm lực kinh tế, quân sự thua kém rất nhiều lần so với cường quốc Hoa Kỳ. Vậy xin viện dẫn lời của tướng Maxwell Taylor, cựu Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn và cũng từng là cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ L.B. Johnson, đã phải thốt lên rằng: “Tất cả chúng ta đều có phần của mình trong thất bại của Mỹ ở Việt Nam và chẳng có gì là tốt đẹp cả. Chúng ta không hề có một anh hùng nào trong cuộc chiến tranh này, mà chỉ toàn là một lũ ngu xuẩn. Chính tôi cũng nằm trong số đó” (Báo Mỹ “Sao và vạch”, ngày 14-5-1975). Đúng vậy, một đất nước được thế giới coi là rất hùng mạnh, lại đem quân đi xâm lược một quốc gia có độc lập, chủ quyền, lại kém mình gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế và quân sự, thì làm gì có anh hùng, như lời tự vấn của tướng Maxwell Taylor. Những lời thú nhận của các chính khách, các nhà lãnh đạo, cùng nhiều tướng lĩnh Mỹ và phản ánh của các phóng viên chiến trường ở một số hãng thông tấn nổi tiếng các nước phương Tây đã góp phần bóc trần sự thật về một cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” mà chính phủ Mỹ đương thời đã dã tâm tiến hành trong hàng chục năm chống nhân dân Việt Nam. Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã khép lại cánh cửa chủ nghĩa thực dân mới, làm tiêu tan mọi mưu đồ thâm hiểm của các thế lực thù địch hòng thôn tính, đô hộ, nô dịch, ngăn cản sự phát triển mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Đó là kết quả của biết bao sự tích lũy, trải nghiệm của cách mạng, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự hy sinh to lớn của cả dân tộc, của các thế hệ, của sức mạnh tổng hợp và tổng lực của toàn dân, toàn quân ta. Khẳng định chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Đại thắng mùa xuân năm 1975, để nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc chân chính, tạo nguồn động lực cho sự phát triển mới của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chứ không nhằm khoét sâu, làm đau đớn thêm vết thương chiến tranh do cuộc chiến phi nghĩa, tàn bạo mà đế quốc Mỹ gây ra.
Khẳng định giá trị, ý nghĩa và tầm vóc
lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, chúng ta cũng đồng thời đấu tranh phê
phán, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc sự thật lịch sử với những thiên kiến lệch
lạc, những ác ý thâm độc của các thế lực thù địch và cả những ngộ nhận, mơ hồ
trong sự nhìn nhận, đánh giá lịch sử chiến tranh cách mạng thiếu khách quan, cụ
thể, đi ngược lại tinh thần khoan dung, đồng thuận, đại đoàn kết dân tộc
của toàn dân ta. Đảng, Nhà nước ta đã chủ động đề ra và thực hiện phương châm
“khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển”, nhưng trong bối cảnh mới, hoàn cảnh mới, mỗi người dân của “con
Lạc cháu Hồng” dù ở trong nước hay đang định cư, học tập, công tác ở nước
ngoài, không bao giờ được lãng quên lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm của
dân tộc Việt Nam; càng không được vào hùa với các thế lực thù địch, các phần tử
cơ hội, bất mãn để bóp méo, bôi nhọ, xuyên tạc, đòi đánh giá lại lịch sử, phủ
nhận tầm vóc vĩ đại của Đại thắng mùa xuân năm 1975 nhằm phục vụ cho những mưu
đồ đen tối./.
Chiến thắng 30/4/1975 là chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần đoàn kết của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giá trị lịch sử và thời đại của chiến thắng 30/4 là không thể phủ nhận. Chúng ta cần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh đập tan mọi luận điệu xuyên tạc lịch sử của thế thù địch và các phần tử phản động.
Trả lờiXóa