Việc lựa chọn một đảng cầm quyền như ở Việt Nam hay
đa đảng như các quốc gia khác là tùy vào điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc
gia. Khi nhà nước và quyền lực chính trị còn tồn tại, thì một đảng cầm quyền
hay đa đảng cầm quyền đều sẽ có điều kiện để nảy sinh tham nhũng.
Luận điệu "Ruột cũ
bình mới"
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiền phong của giai cấp và dân tộc; luôn luôn trung thành, kiên định lãnh đạo nhân
dân ta thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Song, thời gian
vừa qua, các thế lực thù địch ở nước ngoài và phần tử cơ hội chính trị ở trong
nước đang rêu rao cho rằng: “Ở Việt Nam, chế độ một đảng cầm quyền là nguyên
nhân sinh ra tệ tham ô, tham nhũng”. Đây là luận điệu kiểu “ruột cũ bình mới”,
tiếp nối sự thất bại của các luận điểm mà chúng từng cao hứng cho rằng: “Ở Việt
Nam, do có một Đảng cầm quyền nên không có dân chủ, đất nước còn nghèo khổ và
không giàu mạnh, phát triển được...”. Mẫu số chung, mục đích chính trị sâu xa
của những luận điểm thù địch đó là đánh đồng hiện tượng tham ô, tham nhũng của
một bộ phận cán bộ, đảng viên, đi đến phủ nhận vai trò độc tôn lãnh đạo của
Đảng, nhằm lừa bịp, kích động, gây mơ hồ ảo tưởng, nhận thức sai lệch của quần
chúng nhân dân lao động về Đảng. Từ đó, dọn đường cho một lực lượng chính trị
lãnh đạo khác thay thế sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới đổi màu chế độ xã hội
theo một kịch bản đã định. Sự tinh vi của mỗi luận điểm phản động nêu ra đều dựa
vào những hiện tượng không phải là bản chất của chế độ ta; bới tìm những hạn
chế nhất thời để vu khống, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Tính chất sai trái của luận
điểm cho rằng: “Ở Việt Nam, chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ
tham ô, tham nhũng”, thể hiện ở cả góc độ lý luận và thực tiễn.
Về
lý luận, tham nhũng luôn luôn gắn với quyền lực và lợi ích cá nhân, là một hiện
tượng xã hội gắn với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự
ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước và các quyền lực
công khác. Tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ, với những mức độ khác nhau, phụ
thuộc vào bản chất và trình độ quản lý của nhà nước đó, chứ không phải do một
đảng cầm quyền hay thực hiện chế độ đa đảng. Việc lựa chọn một đảng cầm quyền
như ở Việt Nam hay đa đảng như các quốc gia khác là tùy vào điều kiện lịch sử
cụ thể của từng quốc gia. Khi nhà nước và quyền lực chính trị còn tồn tại, thì
một đảng cầm quyền hay đa đảng cầm quyền đều sẽ có điều kiện để nảy sinh tham
nhũng.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ
chính trị - kinh tế tạo ra lợi ích, siêu lợi ích và đó là tiền đề khách quan
quan trọng làm cho tham nhũng có điều kiện nảy sinh và phát triển. Chừng nào
điều kiện để lợi ích kết hợp với sự lạm quyền của những người có chức vụ, quyền
hạn vẫn còn thì chừng đó vẫn còn sinh ra tệ tham ô, tham nhũng. Từ đó, có thể
thấy, với mỗi một quốc gia, dù là một đảng cầm quyền hay thực hiện chế độ đa
đảng thì tệ tham ô, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, trong các cơ quan công
quyền vẫn luôn là nguy cơ tiềm tàng.
Về
thực tiễn, tham nhũng là vấn nạn chung của toàn cầu, xảy ra ở mọi lĩnh vực có
liên quan hoạt động quản lý kinh tế, xã hội, không phải chỉ xuất hiện ở Việt
Nam, với chế độ một đảng cầm quyền mà ngay tại các quốc gia thực hiện chế độ đa
đảng như Hoa Kỳ, Singapore, Nga, Hàn Quốc… cũng diễn ra nghiêm trọng. Tại
Mexico, tháng 12-2003, đại diện hơn 120 nước trên thế giới đã họp và thông qua
Công ước chống tham nhũng của Liên hợp quốc (có hiệu lực ngày 13-1-2005). Công
ước là bước tiến lớn của cộng đồng quốc tế trong hợp tác chống tham nhũng và
Việt Nam là một trong hơn 110 nước đã ký Công ước chống tham nhũng… Vì vậy, lập
luận rằng “Ở Việt Nam, chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham
ô, tham nhũng” không phải chỉ là một sự ngụy biện phản động, áp đặt thô thiển
mà còn là sự thiển cận trong tư duy!
Chống
tham nhũng ở Việt nam không có vùng cấm
Thực
tế ở Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt, trong công cuộc
đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã xác định tham nhũng là một trong bốn
nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa và tác hại của tệ tham ô, tham nhũng
gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực hiện chủ trương, chính sách về kinh
tế - xã hội, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Công
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng được xác định rất phức tạp và lâu dài.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong các Đại hội từ VI đến XII đã khẳng định quyết tâm
tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng và đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị
quyết chuyên đề, như Nghị quyết 04-NQ/TW khóa VI về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết số
14-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII về “Lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham
nhũng”. Trong đó, đã xác định rõ đấu tranh chống tham nhũng là một bộ phận cấu
thành quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân
dân ta hiện nay, góp phần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu
quả quản lý nhà nước, xây dựng Đảng và bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh,
thực hiện quyền dân chủ của nhân dân...
Nghị
quyết Trung ương 3 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí” đã xác định rõ mục tiêu của công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí nhằm ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng
phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh
tế - xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch,
vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính. Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã chú trọng
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy
tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI đề ra 6 giải pháp, nâng cao vai trò,
trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tiếp tục hoàn thiện
thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tiếp
tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán
bộ để phòng, chống tham nhũng, lãng phí…
Gần
đây, Chỉ thị số 50-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng trong tình
hình hiện nay”, Nghị quyết số 126/NQ-CP của Chính phủ về “Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng đến năm
2020”,v.v.. nhất là, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã mạnh mẽ phê phán tham ô, tham nhũng, coi đó là một trong 27 biểu hiện
sự suy thoái của cán bộ, đảng viên và đưa ra cảnh báo: Tham nhũng đang làm xói
mòn uy tín của Đảng cầm quyền, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Thể
hiện rõ quyết tâm phòng, chống tham nhũng, thể chế hóa quan điểm của Đảng, Luật
Phòng, chống tham nhũng ra đời có hiệu lực thi hành từ ngày 1-6-2006; Chiến
lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020; Ban Chỉ đạo Trung ương về
phòng, chống tham nhũng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban được
thành lập năm 2013 cùng hàng loạt các đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham
nhũng được thành lập tại các bộ, ban, ngành đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng,
Nhà nước ta không bao che cho các hành vi tham ô, tham nhũng, các hành vi làm
trái với pháp luật và làm tổn hại đến tài sản của đất nước, niềm tin của nhân
dân. Những vụ việc liên quan đến tham ô, tham nhũng, làm trái quy định, gây tổn
hại đến tài sản quốc gia, đến uy tín của Đảng đều được xem xét, xử lý công khai
và khẳng định không có vùng cấm.
Một
số kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, một số vụ “đại án” gần đây cho
thấy, các dấu hiệu của tham ô, tham nhũng, liên quan đến tham ô, tham nhũng đều
được chỉ đạo điều tra, giải quyết kịp thời và minh bạch thông tin trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Đây là những hoạt động thể hiện sự phát huy
tối đa những thuộc tính dân chủ xã hội ở Việt Nam theo phương châm “của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân” - thường gọi là chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vậy
nên, cả về lý luận và thực tiễn đều đã chứng minh rằng: vấn đề tham ô, tham
nhũng là vấn nạn nhiều quốc gia phải đối mặt trong nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều
bối cảnh chính trị khác nhau. Việc quy chụp, xiên xẹo thể chế chính trị là
nguyên nhân gây ra tham ô, tham nhũng là luận điệu cố tình bóp méo, xuyên tạc
hòng đánh tráo khái niệm, làm sai lệch bản chất trong tranh luận, cần phải được
nhận thức và phản bác quyết liệt
Tham nhũng thì nước nào chẳng có
Trả lờiXóaMọi người dân Việt Nam phải luôn nêu cao cảnh giác, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của những phần tử phản động
Trả lờiXóa