Triệu Văn
Việt Nam-Lào và Campuchia là ba quốc gia láng giềng trên cùng bán đảo Đông Dương có mối quan hệ
hữu nghị truyền thống, đoàn kết cùng chống kẻ thù chung. Ba dân tộc đã kề vai
sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
để giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Nhưng
vào những năm cuối của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước cho đến năm 1979, tập đoàn Pol Pot đã phản bội nhân
dân Campuchia và phá hoại đi truyền thống đoàn kết,
hữu nghị giữa Việt Nam-Campuchia. Trong nước, Pol Pot thực hiện chính sách diệt
chủng; Bên ngoài chúng thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam
của Việt Nam. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, Quân tình nguyện Việt Nam đã
bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, phối hợp với lực lượng vũ trang Mặt trận Đoàn
kết Dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng tiến công đập tan chế độ diệt chủng
Pol Pot, giải phóng đất nước Campuchia.
Vừa qua, trong khi hai dân tộc Việt
Nam-Campuchia vui mừng, phấn khởi kỷ niệm 40 năm Ngày chiến thắng chiến tranh
bảo vệ biên giới Tây Nam Việt Nam và chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot, thì
trên mạng xã hội vẫn đâu đó có những luận điệu xuyên tạc cuộc tổng tiến công
này. Vẫn với chiêu bài cũ rích, họ cố gắng xuyên tạc đi ý nghĩa cao cả của
chiến thắng: “Cuộc tấn công của quân đội Việt Nam (giải phóng Campuchia) là
cuộc chiến tranh xâm lược”; Việt Nam đã “lấn chiếm Campuchia cả trên đất liền
và biển, đảo”...
Vậy
nguyên nhân của cuộc chiến tranh này là gì? Bản chất và ý nghĩa cao cả của cuộc phản công bảo vệ chủ quyền
quốc gia; giải phóng dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, diệt vong như thế nào?
Theo nhiều tài liệu và chứng cứ còn lại, trong
3 năm (1975-1978), chính quyền Pol Pot đã thực hiện chính
sách chính trị, kinh tế, xã hội hoang dã: Hủy bỏ tất cả quyền con người, quyền
công dân-từ quyền sống đến các quyền tự do tối thiểu. Để làm “trong sạch dân
cư”, chúng đã thực hiện chính sách giết hàng triệu người một cách dã man (đập
chết bằng cuốc, xẻng, mổ bụng, moi gan... ). Chưa đầy 3 năm đã gần 3 triệu
người Campuchia bị giết hại. Chúng xóa bỏ mọi cơ sở xã hội của một nền văn minh
(như xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ
quan hệ hàng hóa-tiền tệ) đẩy dân tộc Campuchia vào thảm họa diệt vong, đồng
thời xóa sổ cả nền văn hóa, văn minh của một dân tộc có bề dày hàng nghìn năm.
Với Việt Nam, Pol Pot vu khống: “Việt
Nam xâm lược, cướp đất, cướp đảo… của Campuchia”. Kích động tư tưởng dân tộc
hẹp hòi, giết nhiều kiều bào Việt Nam; đòi hoạch định lại biên giới Việt
Nam-Campuchia. Chúng tuyên bố Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù số 1”,
là “tai họa lớn nhất” của dân tộc Campuchia… Khi Việt Nam hoàn toàn giải phóng,
chúng tấn công 2 đảo Phú Quốc và đảo Thổ Chu. Chúng đã bắt và giết hại hơn 500
dân thường ở đây. Trên đất liền, chúng khiêu khích, tập kích vào bộ đội biên
phòng, di dời cột mốc biên giới ở các tỉnh: Tây Ninh, Kon Tum, Đắc Lắc…
Cuối tháng 4/1977, Pol Pot điều động 5
sư đoàn và hàng trăm khẩu pháo, xe tăng áp sát biên giới Việt Nam, thực hiện
cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam của
Việt Nam.
Thời kỳ đầu tin tưởng vào chính quyền
Campuchia do Pol Pot-Ieng Sari cầm đầu điều này khiến chúng ta đã mất cảnh giác.
Việt Nam không nghĩ rằng một quốc gia láng giềng từng được quân dân Việt Nam
giúp đỡ, hy sinh cả xương máu để họ có được độc lập dân tộc lại quay súng, giết
hại nhân dân, giết hại đồng bào mình. Tuy vậy, khi chúng đã lộ mặt là kẻ phản
bội, thật sự mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì quân dân Việt Nam bằng
quyền tự vệ chính đáng của mình đã tự vệ đích đáng. Đặc biệt, khi Mặt trận Đoàn
kết Dân tộc cứu nước Campuchia chính thức được thành lập đáp ứng lời kêu gọi
của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia, ngày 23/12/1978, Quân tình
nguyện Việt Nam cùng lực lượng vũ trang của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước
Campuchia đã mở cuộc tổng phản công-tiến công, lần lượt phá vỡ toàn bộ hệ thống
phòng thủ của quân Pol Pot. Ngày 7/01/1979, Quân tình nguyện Việt Nam và lực
lượng vũ trang của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia đã giải phóng
Phnom Penh, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của tập đoàn phản động Pol Pot và chế
độ diệt chủng ở Campuchia.
Về nguyên nhân quân đội Việt Nam không rút về
nước ngay trong năm 1979, Thủ tướng Hun Sen kể rằng: “Sau chiến thắng ngày 07/01/1979, nếu như theo kế hoạch ban đầu, bộ đội Việt Nam
sẽ rút quân khỏi Campuchia ngay trong năm 1979. Tuy nhiên, vào thời điểm đó,
Campuchia chưa đủ sức chống lại Pol Pot và cần thời gian để củng cố lực lượng
cũng như khôi phục nền kinh tế của mình. Nếu Việt Nam rút quân và Pol Pot quay
trở lại được thì sẽ càng nhiều người Campuchia bị giết”, “Chính phủ Việt Nam
không muốn để quân ở lại. Phía chúng tôi đã yêu cầu họ như thế...” Trong chuyến
thăm Việt Nam gần đây, ông nói: “Nếu không có sự giúp đỡ của Việt Nam thì
Campuchia không có ngày nay”. Thủ tướng Hun Sen còn khẳng định: “Chúng ta có
thể hỏi rằng trên thế giới này, có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc
biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và ngăn cản sự quay lại của
chúng? Câu trả lời chính là nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhân dân
Campuchia có niềm tin, chỉ có tiên, có Phật mới cứu giúp được những phận người
khi gặp khó khăn khốn cùng. Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn
biết chắp tay khẩn cầu tiên, Phật tới cứu thì Bộ đội tình nguyện Việt Nam xuất
hiện. Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”.
Những
sự kiện diễn ra trong cuộc chiến tranh này, cùng với nhận định rõ ràng của thủ
tướng Hun Sen đã hoàn toàn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước về cuộc chiến tranh, nhất là luận điệu “Việt Nam xâm
lược, xâm lấn Campuchia”. Thực tế cho thấy, cuộc chiến tranh ở biên giới Tây
Nam là một cuộc chiến tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta. Đồng
thời cũng là cuộc chiến đấu bảo vệ sinh mạng-quyền con người của cả hai dân tộc
Campuchia và Việt Nam; là cuộc chiến tranh chính nghĩa-cuộc chiến tranh tự vệ
chính đáng, giáng trả kẻ thù xâm lược, ngoài ra không có mục tiêu nào khác.
Chế độ diệt chủng Pol Pot không chỉ là
một thảm họa với dân tộc Campuchia mà còn là một nguy cơ lớn đối với dân tộc
Việt Nam. Bởi vậy, giúp nhân dân Campuchia giải phóng "cũng là mình tự
giúp mình”. Chiến thắng của quân dân ta là chiến thắng của tình đoàn kết hữu
nghị truyền thống Việt Nam-Campuchia, khôi phục lại tình đoàn kết hữu nghị vốn
có giữa hai Đảng và nhân dân hai nước. Đây là một thông điệp đanh thép của nhân
dân Việt Nam gửi tới mọi kẻ thù. Bất cứ kẻ thù nào, nếu có dã tâm xâm lược Việt
Nam, chúng sẽ bị giáng trả với toàn bộ sức mạnh tinh thần, trí tuệ và vật chất.
Thắng lợi của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất; chúng ta phải phát huy những thành quả đó và đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc
Trả lờiXóa