Thứ Tư, 3 tháng 10, 2018

NHỮNG CỐNG HIẾN TO LỚN CỦA CỐ TỔNG BÍ THƯ ĐỖ MƯỜI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM


Đồng chí Đỗ Mười, tên thật là Nguyễn Duy Cống, sinh ngày 2-2-1917 ở làng Đông Phù (xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội), trong một gia đình nông dân có truyền thống yêu nước. Sớm giác ngộ cách mạng, hưởng ứng lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, năm 1936, khi mới 19 tuổi, đồng chí tham gia Mặt trận Bình dân. Từ đó, đồng chí đã có những đóng góp to lớn cho Đảng, cho nhân dân và cách mạng Việt Nam.
Người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Được tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin, từ người yêu nước, đồng chí Đỗ Mười trở thành người chiến sĩ cộng sản. Năm 1939, đồng chí trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 10-1941, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, giam giữ tại Hỏa Lò, Hà Nội. Sau khi Nhật đảo chính Pháp (tháng 3-1945), đồng chí vượt ngục thành công và trở về tiếp tục hoạt động cách mạng, được Đảng phân công làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Đông, trực tiếp lãnh đạo nhân dân giành chính quyền tại đây trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh điều động làm Bí thư Tỉnh ủy các tỉnh: Hà Đông, Hà Nam, Ninh Bình, kiêm phụ trách các tỉnh Hòa Bình, Thái Bình, Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến tỉnh Nam Định, Phó Bí thư Liên khu III, Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu III, Tư lệnh Liên khu III, Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính và Chính ủy Bộ Tư lệnh Khu Tả Ngạn sông Hồng, Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Quân quản TP Hải Phòng.
Là người cán bộ chủ chốt, đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cho nhân dân, các lực lượng vũ trang vừa chiến đấu vừa xây dựng chính quyền cách mạng; vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Đồng chí trở thành người lãnh đạo, người chỉ huy quân sự tài năng, được mệnh danh là một vị tướng của chiến tranh du kích, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng và chiến trường chính Bắc Bộ.
Từ ngày hòa bình lập lại, đồng chí được Đảng phân công đảm trách nhiều bộ, ngành, lĩnh vực như: Bộ trưởng Bộ Nội thương; Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá nhà nước; Trưởng phái đoàn Thanh tra Chính phủ; Bộ trưởng Bộ Xây dựng; Phó Thủ tướng Chính phủ; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng…
Đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa II, IV, V, VI, VII, VIII, IX. Đồng chí liên tục tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khóa II đến khóa VIII và được Ban Chấp hành Trung ương bầu Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị (khóa IV), Ủy viên Bộ Chính trị (khóa V đến khóa VIII). Ở bất cứ cương vị nào được Đảng và nhân dân tin cậy giao phó, đồng chí đều đem hết sức mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Năm 1991, đồng chí Đỗ Mười đảm nhận trọng trách Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII. Đây là thời kỳ đất nước ta đứng trước những thử thách hiểm nghèo, một mặt là do hậu quả của khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm chưa được khắc phục, mặt khác là do tác động tiêu cực từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu cùng sự bao vây, cấm vận của chủ nghĩa đế quốc… Chính tại thời điểm lịch sử này, với trí tuệ và bản lĩnh của người cộng sản được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng, đồng chí Đỗ Mười đã cùng Bộ Chính trị, Trung ương Đảng phân tích nguyên nhân sự sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, rút ra những bài học. Đồng thời, đi sâu chấn chỉnh nội bộ không để Đảng và nhân dân bị sai lầm, lệch lạc về quan điểm, đường lối; tập trung lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, tiếp tục tạo nên sức chiến đấu mới, đưa đất nước vượt qua mọi cam go, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, với công cuộc đổi mới.
Nhà lãnh đạo có tư duy nhạy bén, sắc sảo, hành động kiên quyết
Gần 80 năm hoạt động cách mạng, trong đó có 33 năm là thành viên Chính phủ, 19 năm là Phó Thủ tướng, 3 năm làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, 7 năm giữ trọng trách Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Đỗ Mười đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam để góp phần quan trọng cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoạch định đường lối, chiến lược, phương pháp cách mạng trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong việc tìm tòi con đường đưa nước ta từ một nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa…
Đồng chí Đỗ Mười đã để lại cho chúng ta di sản tư tưởng lý luận phong phú trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, ngoại giao… mà đặc biệt là trong xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước ngang tầm yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chính đồng chí là người khởi xướng xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; chỉ đạo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; tiến trình công nghiệp hóa và hướng đi lên của nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta. Đồng chí góp phần quan trọng khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc; xóa bỏ thế bị bao vây, cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, gia nhập ASEAN; khai thông quan hệ với các định chế tài chính…
Là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Đỗ Mười đã nêu một tấm gương sáng về lòng trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, về lập trường cách mạng kiên định, đạo đức cách mạng trong sáng, tinh thần cách mạng triệt để, ý chí tiến công mãnh liệt, chiến đấu không mệt mỏi, không lùi bước trước bất cứ khó khăn, thử thách nào. Đồng chí đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cho tự do, hạnh phúc của nhân dân và cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Với những công lao và thành tích xuất sắc đối với cách mạng, đồng chí Đỗ Mười đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng cùng nhiều phần thưởng cao quý khác...

1 nhận xét: