Gần đây, ở trong nước và nước ngoài, một số người
nêu danh “nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh”, đã truyền bá luận điểm Tư tưởng Hồ
Chí Minh chỉ là chủ nghĩa dân tộc. Họ giải thích tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư
tưởng cách mạng giải phóng dân tộc, không có tư tưởng đấu tranh giai cấp, không
có tư tưởng về cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ
tiền đề này, họ rút ra kết luận:
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin vì tư tưởng Hồ Chí Minh
là chủ nghĩa dân tộc, còn chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận đấu tranh giai cấp.
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam vì tư
tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc, còn đường lối của Đảng là theo tư tưởng
đấu tranh giai cấp “tả khuynh” của Quốc tế Cộng sản và của lãnh tụ các Đảng
cộng sản lớn.
Thông
qua lịch trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh cùng những điều chỉnh Người nói
về tư tưởng của mình, chúng ta hãy xem luận điểm trên có phải là “tìm tòi sự
thật” hay là sự xuyên tạc lịch sử?
Hồ
Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, nghĩa tình nhân đức và thiết
tha yêu nước. Người được chứng kiến sự tàn bạo của thực dân, phong kiến và bản
thân cũng lớn lên trong khổ đau, hoạn nạn. Vì thế, Hồ Chí Minh sớm có lòng yêu
nước, thương dân. Hồ Chí Minh khâm phục tinh thần xả thân vì nước của các bậc
tiền bối trong cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám, trong phong trào Đông Du của
Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh... nhưng với nhãn quan
chính trị độc lập và sáng suốt, Người không tán thành con đường cứu nước của
các cụ vì mỗi con đường đó đều có hạn chế, khó có thể đi đến thành công. Hồ Chí
Minh đi tìm con đường cứu nước mới với hành trang chỉ là chủ nghĩa yêu nước
truyền thống và một trí tuệ mẫn tiệp. Trải qua gần mười năm bôn ba khắp bốn
biển năm châu, nung nấu chí hướng cứu nước cứu dân, vừa lao động cùng những
người anh em chung cảnh ngộ, vừa hoạt động cách mạng, vừa học hỏi các tư tưởng
mới..., nhận thức của Hồ Chí Minh chuyển biến từng bước. Mùa thu năm 1920, Hồ
Chí Minh được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin. Luận cương của Lênin chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc
muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Đó là chân lý của thời
đại, là giải đáp tuyệt vời điều Hồ Chí Minh đang trăn trở, tìm tòi. Từ đây, Hồ
Chí Minh xác định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản. Cũng từ đây, Hồ Chí Minh tin theo chủ nghĩa
Mác - Lênin - học thuyết bất hủ chỉ ra con đường giải phóng giai cấp vô sản và
các giai cấp lao động khác, giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng con
người, trở thành một trong những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người
cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sự
chuyển biến tư tưởng từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước
theo lập trường giai cấp vô sản là một quá trình hợp quy luật. Đúng như đồng
chí Phạm Văn Đồng coi việc chủ nghĩa yêu nước truyền thống Hồ Chí Minh bắt gặp
chữ nghĩa Mác - Lênin là cuộc “hẹn gặp lịch sử”, hoàn toàn không phải như có
người cố tình xuyên tạc rằng đó là một sự lai ghép cưỡng bức, vội vàng giữa cái
cây truyền thống với cái mầm ngoại nhập”, tạo thành một “ảo ảnh”, mang “tính
chất huyễn diệu”... !
Chính
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết về quá trình đó như sau:
Lúc
đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi
tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh,
vừa nghiên cứu lý luận Mác- Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu
được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không thụ
động, mà dùng lập trường, quan điểm, phương pháp Mác - Lênin, vận dụng và phát
triển những nguyên lý, quy luật chung của cách mạng thế giới vào đặc điểm tình
hình các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Những luận điểm về chủ nghĩa đế
quốc như một con đỉa có hai vòi, tính chủ động và khả năng thành công trước của
cách mạng thuộc địa, nội dung chủ yếu của cách mạng thuộc địa, quy luật thành
lập Đảng ở các nước thuộc địa, v.v...là những cống hiến lý luận to lớn của Hồ
Chí Minh đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới.
Ngay
từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã khẳng định đối với các dân tộc thuộc địa ở phương
Đông, “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Phải chỉ rõ rằng Hồ Chí
Minh đánh giá cao động lực của chủ nghĩa dân tộc, nhưng chủ nghĩa dân tộc theo
quan niệm của Hồ Chí Minh không phải là chủ nghĩa dân tộc theo lập trường phong
kiến hay tư sản, mà đây là chủ nghĩa dân tộc theo lập trường vô sản.
Hồ
Chí Minh đã nghiên cứu kỹ các cuộc cách mạng trên thế giới, đánh giá tính chất
từng cuộc cách mạng ở từng nước, để tìm con đường đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam. Với cách mạng Mỹ, Người cho rằng: “Trong lời tuyên ngôn của Mỹ có câu
rằng, giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, quyền
làm ăn cho sung sướng... Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân chúng phải đạp đổ
Chính phủ ấy đi, và gây nên Chính phủ khác. Nhưng bây giờ Chính phủ Mỹ lại
không muốn cho ai nói đến cách mạng, ai đụng đến Chính phủ. Về cách mạng tư sản
Pháp, Người chỉ rõ: “tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân,
xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó lại thay
phong kiến mà áp bức dân. Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tư bản, cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kì thực
trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Với Cách mạng
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong thế giới bây
giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình
đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga
đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ, rồi lại ra sức cho công, nông các nước và
dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mạng để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và
tư bản trong thế giới. Người xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường
của Cách mạng Tháng Mười. Với tác phẩm Đường cách mạng thì đường lối cách mạng
giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã được xác định về cơ bản.
Trong
những năm 20 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước để chuẩn bị cho việc thành lập
Đảng. Cùng với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã chuẩn bị về đường
lối cho cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, nước ta từ khi Pháp xâm lược đã
trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội đó, chứa đựng cả mâu
thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp nhưng mâu thuẫn dân tộc nổi lên gay gắt
nhất, giải phóng dân tộc là mục tiêu cơ bản và trước hết, chống đế quốc và tay
sai giải phóng dân tộc đã đã bao hàm nội dung giải phóng giai cấp nhưng chưa
triệt để. Muốn củng cố thành quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và triệt
để giải phóng giai cấp, giải phóng con người, phải thực hiện cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” và chủ trương: “chúng ta đã hy sinh
làm cách mạng, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một số ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Chủ nghĩa xã hội
theo Hồ Chí Minh là một xã hội mọi người dân đều có cuộc đời ấm no, bình đẳng,
tự do; đất nước được hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung nổi bật và nhất quán
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định rằng: con đường hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh là từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, được kết hợp với tư
tưởng cách mạng tiên tiến Mác - Lênin trở thành tư tưởng giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người ở Việt Nam theo lập trường giai cấp
công nhân.
Đầu
năm l930, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng. Người trình
bày dự thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, được Hội
nghị của Đảng thông qua, trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Tuy còn “vắn
tắt” nhưng cương lĩnh đã nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng tuy mới là “vắn tắt”, nhưng đã bao quát được những vấn
đề có ý nghĩa định hướng về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Nội
dung Cương lĩnh vừa thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa
phù hợp với hoàn cảnh và yêu cầu của cách mạng Việt Nam.
Ngay
từ khi mới ra đời, Đảng ta đã lấy chủ nghĩa - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng. Song có thời gian do hạn chế về nhận thức, nên một số đồng
chí không quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng của Hội nghị thành
lập Đảng. Từ năm 1936, nhất là từ Hội nghị Trung ương sáu tháng 11 - 1939 đến
Hội nghị Trung ương tám tháng 5 - 1941, đường lối cách mạng của Đảng ta đã trở
lại quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và từ đó đường lối của Đảng ta luôn luôn
thấm nhuần tư tưởng của Người.
Những
sử liệu trên, dù mới chỉ được dẫn ra chưa đầy đủ và còn sơ lược, cũng đã chứng
tỏ những luận điệu như: tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là chủ nghĩa dân tộc, không có
nội dung đấu tranh giai cấp; tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác -
Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam...
chỉ là một sự bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử của những kẻ có mưu đồ chính
trị đen tối.
Phải bắt hết bọn phản động và xử lý thật nghiêm khắc để răn đe người khác.
Trả lờiXóa