Những năm qua, các thế lực xấu, thù địch
luôn cố gắng truyền bá luận điệu cho rằng, vì Chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã lỗi
thời cho nên không thể xây dựng xã hội mới tốt đẹp trên nền tảng học thuyết đó
(!) và trên thực tế luận điệu này đã mê hoặc được một số người. Vì thế, làm
sáng tỏ bản chất vấn đề là một yêu cầu bức thiết trong cuộc đấu tranh chống lại
các quan điểm sai trái, thù địch.
Những người cho rằng, Chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã lỗi thời
thường chủ yếu dựa vào bốn lý do: 1. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin ra đời từ các điều
kiện kinh tế – xã hội ở thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nên không còn phù hợp với
thực tiễn hiện nay; 2. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu
xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực theo học thuyết của C. Mác,
Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin, và sự sụp đổ của Liên Xô cùng các nước XHCN ở Đông Âu
cho thấy đó là một học thuyết sai lầm; 3. Điều kiện kinh tế và xã hội ở các
nước tư bản phát triển được cải thiện rất nhiều so với ở các nước đi theo con
đường XHCN, chứng tỏ chủ nghĩa tư bản (CNTB) là ưu việt; 4. Một loạt sai lầm,
khuyết điểm mà các nước đi theo con đường XHCN, trong đó có Việt Nam, đã và
đang mắc phải đã chứng tỏ lý luận về CNXH là sai lầm và lỗi thời! Đây là những
căn cứ thiếu cơ sở khoa học, nhằm che đậy âm mưu của các thế lực thù địch, phản
động với mục đích cuối cùng là xóa bỏ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, củng cố địa vị
thống trị của chủ nghĩa tư bản.
Trước hết, chúng ta cần thấy rằng, học thuyết của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen ra đời từ giữa thế kỷ 19, trong điều kiện các mâu thuẫn của CNTB đã
trở nên gay gắt, phơi bày tất cả bản chất giai cấp của nó và sự bóc lột người
lao động đến cùng cực. C.Mác và Ph.Ăng-ghen kế thừa thành tựu nghiên cứu của
các nhà khoa học đi trước, tiếp thu có phê phán các giá trị tinh hoa của quá
trình phát triển tư tưởng nhân loại và với tài năng của mình, các ông đã phát
hiện ra tính quy luật trong sự vận động của xã hội loài người, trong đó nhân tố
quyết định là quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
Đây chính là cơ sở để C.Mác và Ph.Ăng-ghen dự báo về tất yếu loài người sẽ tiến
tới hình thái kinh tế – xã hội chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội
XHCN. V.I.Lê-nin đã phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen trong bối cảnh
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Người có nhiều đóng góp phát triển tư tưởng
triết học, kinh tế – chính trị và CNXH khoa học của C.Mác, Ph.Ăng-ghen; đặc
biệt, V.I.Lê-nin phát triển luận điểm về khả năng thắng lợi của cách mạng vô
sản ở một nước tư bản, thậm chí trình độ phát triển chưa cao; xây dựng học
thuyết về chính đảng mác-xít kiểu mới; tổ chức cách mạng XHCN thắng lợi và vận
dụng học thuyết của C.Mác để phân tích, giải quyết hàng loạt vấn đề trong quá
trình xây dựng CNXH ở nước Nga và Liên bang Xô viết. Đến giữa thế kỷ 20, Hồ Chí
Minh là người đã vận dụng một cách sáng tạo các nguyên lý của Chủ nghĩa Mác –
Lê-nin vào thực tiễn để giải quyết các nhiệm vụ to lớn của cách mạng Việt Nam,
từ đó huy động sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đấu
tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, đánh bại các đế quốc to, bảo vệ
từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
Những gì CNTB hiện đại đang thể hiện không nằm ngoài tính
quy luật mà Chủ nghĩa Mác – Lê-nin từng chỉ ra, càng chứng minh tính đúng đắn
của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Sự phát triển lực lượng sản xuất với tác động của
cách mạng khoa học và công nghệ, một mặt, tăng thêm tiềm lực cho CNTB, mặt khác
thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất, dẫn đến các thay
đổi về quy mô, tính chất của quan hệ sở hữu, quản lý, điều hành sản xuất, phân
phối của cải. Suy cho cùng, toàn cầu hóa ra đời từ nền kinh tế TBCN cũng giống
như cái “áo” đã quá chật đối với mỗi quốc gia và buộc phải nới rộng trên phạm
vi thế giới. Sự áp bức bóc lột của CNTB cũng theo đó mở rộng ra ngoài chính
quốc và về bản chất, cũng không khác gì hành vi xâm lược thuộc địa trước đây,
chỉ có điều được che đậy dưới lớp vỏ hào nhoáng hơn, vào các quốc gia nghèo khó
bằng cửa chính và bóc lột bằng các luật lệ tự coi là sạch sẽ, văn minh! Người
ta tìm mọi cách để chiếm đoạt nguồn tài nguyên, của cải trên thế giới, quy phục
các quốc gia yếu thế nhằm phục vụ lợi ích của mình. Chiến tranh I-rắc đẩy một
quốc gia vào cuộc chiến đẫm máu, huynh đệ tương tàn hơn một thập niên vẫn chưa
có lối ra. Lý do phát động cuộc chiến tranh chống lại một dân tộc có chủ quyền
là tàng trữ “vũ khí giết người hàng loạt” nhưng sau chiến dịch Bão táp sa mạc,
đến nay dù đào bới, xới lộn cả nước I-rắc vẫn không tìm thấy “vũ khí giết người
hàng loạt” nào! Vậy nguyên nhân cuộc chiến ở I-rắc là gì nếu không phải vì dầu
mỏ và lợi ích của các ông chủ, các nhà tư bản? Và “cách mạng màu” phát động ở
Li-bi, Xy-ri,… cũng thế, đều có chung hình thức bên ngoài, mục đích ẩn giấu bên
trong và hậu quả tồi tệ không khác gì với cuộc chiến ở I-rắc.
Nhìn nhận từ góc độ nhân văn, CNXH là ước vọng ngàn đời của
mọi người lao động, của những con người có lương tri cùng tình thương nhân
loại, muốn sống trong hòa bình, nhân ái. C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã phát triển CNXH
từ không tưởng trở thành khoa học khi nhìn nhận nó từ quy luật vận động của
lịch sử, như sự vận động tất yếu từ những cơ sở xã hội, những yếu tố kinh tế,
vật chất vốn đã được hình thành ngay trong lòng CNTB. Như vậy, CNXH là phù hợp
và hợp lý cả về phương pháp luận khoa học và tính mục đích nhân văn.
Cùng với những phân tích trên, một vấn đề nữa cần phải khẳng
định là trên thực tế, mô hình CNXH hiện thực đã đưa tới sự thay đổi rung trời
chuyển đất và làm nên một vầng sáng không thể phủ nhận trong diễn trình lịch sử
thế giới thế kỷ 20, vì đã đem lại cuộc sống tốt đẹp cho phần lớn nhân loại; tạo
nên sức mạnh không thể tưởng tượng về nguồn lực vật chất và tinh thần, đủ sức
động viên sức người, sức của, tạo thành lực lượng chủ yếu đánh thắng lực lượng
của các liên minh tư bản, cũng như của chủ nghĩa phát-xít tàn bạo. Thành tựu
của các nước XHCN đã động viên, thúc đẩy cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, dân
chủ, hòa bình, giải phóng dân tộc trên thế giới. Hàng loạt dân tộc bị áp bức đã
giành được độc lập, tự do dưới ảnh hưởng và sự giúp đỡ vô tư của các nước XHCN
do Liên Xô dẫn đầu. CNXH và cuộc đấu tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao
động trên toàn thế giới đã là động lực thúc đẩy, buộc các thế lực tư bản, đế
quốc phải một mặt thừa nhận quyền tự do, độc lập của các dân tộc trong hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân; một mặt tạo nên sức ép, buộc các thế lực tư
bản thực hiện một số cải cách xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân lao động
ở chính quốc.
Sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước
XHCN ở Đông Âu là bài học đau đớn không chỉ cho những người cộng sản, mà còn
cho nhân loại tiến bộ. Chúng ta cần tỉnh táo nhận thấy rằng, đó là kết quả của
sự bảo thủ, chậm đổi mới nhận thức, chậm đổi mới chính sách, thiếu giải pháp
cần thiết để giải quyết các vấn đề nảy sinh từ bối cảnh lịch sử, từ thực tiễn
quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Đó cũng chính là sai lầm do không nhận
thức đúng đắn dẫn đến vận dụng sai những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –
Lê-nin về tính biện chứng, nguyên tắc khách quan, lịch sử, cụ thể và phát triển
trong quá trình lãnh đạo cách mạng XHCN. Mặt khác, sự sụp đổ của mô hình CNXH
hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng CNXH
cụ thể, tuyệt nhiên không phải là sụp đổ của một học thuyết khoa học, càng
không thể là sụp đổ lý tưởng về tương lai tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ hướng
tới. Điều ấy được minh chứng bằng việc ở thời điểm hiện tại, một loạt nước ở
tây bán cầu đang tìm con đường, cách thức xây dựng CNXH theo mô hình mới; và
một loạt quốc gia ở chính châu Âu (nhất là Bắc Âu) đã và đang lấy CNXH làm mục
đích và cảm hứng để xây dựng, phát triển đất nước, bởi không phải không có lý
do khi họ tự gọi mình là mô hình CNXH phúc lợi. Đương nhiên còn một minh chứng
cụ thể là một số nước kiên trì đi theo con đường XHCN, trong đó có Việt Nam, đã
đạt được các thành tựu có tính lịch sử trong quá trình xây dựng, phát triển.
Hiểu thấu đáo những vấn đề trên, có nhãn quan chính trị nhạy
bén, tỉnh táo sẽ giúp chúng ta nhìn nhận một cách khách quan, phản bác những
luận điệu tuyên truyền phản động, cố tình bóp méo sự thật để phục vụ cho mưu đồ
đen tối của các thế lực thù địch nhằm chống phá chế độ, chống phá sự nghiệp
cách mạng Việt Nam theo con đường đi lên CNXN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã
lựa chọn.
Các đối tượng phản động thường xuyên tạc, phủ nhận Học thuyết Mác-Lênin, nói xấu Đảng, kích động người dân đấu tranh xóa bỏ Đảng CSVN. Vì vậy chúng ta phải hết sức cảnh giác.
Trả lờiXóa