Việc
quy định lực lượng vũ trang nhân dân trung thành với Đảng, có nhiệm vụ bảo vệ
Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa trong Hiến pháp năm 2013, đã nhận
được sự đồng tình, nhất trí cao trong nhân dân. Tuy nhiên, cho đến nay, các thế
lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị vẫn tiếp tục tuyên truyền các quan
điểm mơ hồ về “một thể chế đa nguyên, đa đảng, một chính thể với tam quyền
phân lập gắn với lực lượng vũ trang trung lập, đứng ngoài chính trị”; “lực
lượng vũ trang chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung
thành với bất kỳ tổ chức nào”; “lực lượng vũ trang là để bảo vệ nhân dân, bảo
vệ Tổ quốc… không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào”,… nhằm phủ nhận vấn đề
này.
Trên
cơ sở xem xét một cách khách quan, khoa học thì sự hoài nghi, phủ nhận quy định
lực lượng vũ trang nhân dân trung thành với Đảng, có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Điều 65 trong Hiến pháp năm 2013 là không có
căn cứ, cơ sở khoa học. Có thể khẳng định rằng, việc bổ sung thêm những điểm
mới này ở Điều 65 trong Hiến pháp năm 2013 là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn dựa
trên những cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc:
Trước
hết, việc quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng và Nhà nước xuất
phát từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất giai cấp của lực lượng vũ
trang. Trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, nghiên cứu nguồn gốc, bản chất
chiến tranh và lực lượng vũ trang, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định lực
lượng vũ trang là một hiện tượng lịch sử ra đời trong giai đoạn phát triển nhất
định của loài người khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự đối
kháng giai cấp trong xã hội; bản chất chính trị - xã hội của lực lượng vũ trang
được quyết định bởi lực lượng vũ trang đó do giai cấp nào tổ chức ra, nằm trong
tay ai và phục vụ trước hết cho lợi ích của giai cấp nào trong xã hội. Lực
lượng vũ trang do giai cấp áp bức, bóc lột tổ chức bao giờ cũng hướng đến mục
tiêu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, trên cơ sở chà đạp lên quyền lợi
của nhân dân lao động. Ngược lại, lực lượng vũ do giai cấp công nhân và nhân
dân lao động tổ chức ra luôn vì lợi ích của nhân dân. Như vậy là, trong xã hội
có giai cấp, lực lượng vũ trang chưa bao giờ và không bao giờ đứng ngoài đời
sống chính trị của xã hội. Về vấn đè này, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Quân đội không
thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu
hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga
hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào chính trị
phản động”.
Thứ
hai, thực tiễn lịch sử thế giới cho thấy rõ, không có lực lượng vũ trang trung
lập, đứng ngoài chính trị. Những lực lượng
vũ trang đầu tiên xuất hiện trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp, La Mã cổ
đại… đã luôn đóng vai trò là công cụ bạo lực hữu hiệu giúp giai cấp chủ nô hiện
thực hóa mọi mục đích chính trị, như: bảo vệ nhà nước chiếm hữu nô lệ, trấn áp
phong trào đấu tranh của nô lệ, tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng phạm vi
lãnh thổ… Trải qua thời kỳ trung đại, cận đại và hiện đại ngày nay, vấn đề này
vẫn là một quy luật không hề thay đổi: không có quốc gia nào không do một giai
cấp tổ chức ra, không do một đảng phái chính trị lãnh đạo; không có lực lượng
vũ trang, quân đội nào không gắn với chính đảng cầm quyền. Chính đảng lãnh đạo
lực lượng vũ trang, quân đội là biểu hiện tập trung cao nhất, đại diện cho lợi
ích giai cấp cầm quyền - cũng là lực lượng chính trị đã tổ chức ra lực lượng vũ
trang, quân đội. Dù có thừa nhận hay không thì lực lượng vũ trang, quân đội vẫn
chịu sự chi phối bởi quan điểm, đường lối chính trị của giai cấp, nhà nước đã
tổ chức ra nó. Tùy theo tính chất phản động, hay tiến bộ, cách mạng của giai
cấp, nhà nước ấy mà lực lượng vũ trang, quân đội sẽ thể hiện bản chất của mình.
Hiện nay luận điệu “quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị” cũng thường được
đề cập ở các nước thực hiện đa nguyên, đa đảng khi xảy ra sự tranh giành quyền
lực giữa các đảng phái. Dù các đảng phái ở các nước đó tìm mọi cách che đậy,
nhưng rõ ràng dưới hình thức này hay hình thức khác, quân đội ở các nước đó vẫn
thường xuyên can dự vào đời sống chính trị của đất nước.
Thứ
ba, thực tiễn ra đời, trưởng thành và phát triển của lực lượng vũ trang nhân
dân nước ta đã khẳng định lực lượng vũ
trang nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân, luôn trung thành với Tổ quốc,
Nhân dân, với Đảng và Nhà nước. Thực tiễn ra
đời, trưởng thành và phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân nước ta cho
thấy, lực lượng vũ trangnhân dân bao
gồm cả Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và dân quân tự vệ ra đời từ các
phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, luôn là công cụ bạo lực
sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, lực lượng
vũ trang luôn chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Sự
ra đời, phát triển, lớn mạnh và chiến đấu và chiến thắng của lực lượng vũ trang
nhân dân gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Gần 70 năm xây dựng, trưởng thành
của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã khẳng định một vấn đề mang tính quy
luật: sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân tố cơ bản, quyết định sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của lực lượng vũ
trang. Tuy cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang có những điều
chỉnh, thay đổi nhất định gắn với điều kiện lịch sử cụ thể, song, nguyên tắc
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang luôn
được nhất quán thực hiện. Nhờ đó, lực lượng vũ trang đã không ngừng trưởng
thành, lớn mạnh, trở thành lực lượng “bách chiến, bách thắng”, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã cùng cả
dân tộc vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược,
giành lại độc lập cho Tổ quốc, mang đến cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do và
hạnh phúc cho nhân dân. Đồng thời, thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng cho thấy
rằng, trong mọi hoàn cảnh lịch sử, lực lượng vũ trang nhân dân không chỉ trung
thành với Tổ quốc, nhân dân mà còn luôn trung thành với Đảng và Nhà nước và
thực tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Gần
đây, để cổ súy quan điểm lực lượng vũ trang chỉ phải trung thành với Tổ quốc và
nhân dân, không phải trung thành với bất cứ đảng phái nào, nhằm phủ nhận Điều
65 trong Hiến pháp năm 2013, một số người đã viện dẫn rằng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng chỉ đề cập lực lượng vũ trang trung với nước, mà không đề cập trung
với Đảng. Bằng chứng họ đưa ra là: trong lễ khai giảng Trường Võ bị Trần Quốc
Tuấn, ngày 26-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao tặng lá cờ “Trung với
nước, hiếu với dân” cho học viên nhà trường. Họ còn cho rằng: trung với
nước hiếu với dân” mới tập hợp được lực lượng toàn dân đánh giặc cứu nước, xây
dựng Tổ Quốc. Đây là sự trích dẫn cắt xén, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi
sự thật không phải như vậy. Ngay từ khi tổ chức ra lực lượng vũ trang công
nông, chuẩn bị lực lượng cho tổng khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng nhân tố chính trị trong xây dựng lực lượng vũ trang. Theo Người, “công an
nhân dân vũ trang, hay là quân đội cũng thế, phải phục tùng sự lãnh đạo của
Đảng từ trên xuống dưới. Nhất định phải như thế”, “quân sự mà không có chính
trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”… Còn ở vào thời điểm lịch sử
tháng 5/1946, thực hiện sách lược hòa hoãn với kẻ thù, Đảng ta đã tuyên bố tự
giải tán, song trên thực tế Đảng đi vào hoạt động bí mật. Do vậy, vào thời điểm
nhạy cảm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh không thể công khai đưa ra quan điểm lực
lượng vũ trang trung với Đảng. Sau đó, trong lời tuyên dương của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đối với quân đội vào ngày 22/12/1964, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành
lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Người đã nói: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu
với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Có
thể khẳng định rằng, việc bổ sung thêm những điểm mới trong Điều 65 Hiến pháp
năm 2013 quy định về lực lượng vũ trang trung thành với Đảng và Nhà nước, bảo
vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn cần thiết
và đúng đắn dựa trên những cơ sở vững chắc cả về lý luận và thực tiễn. Việc quy
định mới này góp phần làm cho bản Hiến pháp năm 2013 có sức sống mới, phản
ánh đúng đắn tình hình thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ bài học sâu sắc về vấn đề “lực lượng vũ
trang trung lập, đứng ngoài chính trị” ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, thực tiễn cho thấy rằng, đồng tình với quan điểm “lực
lượng vũ trang trung lập, đứng ngoài chính trị” cũng có nghĩa là phủ nhận tính
giai cấp của lực lượng vũ trang, bất luận như thế nào cũng sẽ là một sai lầm
nghiêm trọng. Bài học về sự tan rã và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và các nước Đông Âu đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Những
ý kiến, quan điểm đi ngược lại Điều 65 trong Hiến pháp năm 2013, cổ súy cho
luận điệu “lực lượng vũ trang trung lập, đứng ngoài chính trị” chỉ là sự biến
tướng của âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm “phi chính trị hóa” lực lượng vũ
trang, xóa nhòa bản chất giai cấp của lực lượng vũ trang, tiến tới làm biến
chất lực lượng vũ trang nhân dân nước ta, trên cơ sở đó tạo tiền đề cho âm mưu
xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang nhân
dân, Nhà nước và xã hội nhằm thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bài viết rất ý nghĩa
Trả lờiXóa