Văn hóa
không chỉ là diện mạo, hình ảnh của quốc gia, mà còn là sức sống bền bỉ và sức
mạnh to lớn của cộng đồng dân tộc. Việt Nam luôn chú trọng quan tâm thúc đẩy
phát triển văn hóa không chỉ nhằm củng cố, tăng cường “sức mạnh mềm” của đất nước,
mà còn khẳng định vị thế văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Suốt những năm qua, đi đôi với việc chăm lo phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống
dân sinh, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng xây dựng môi trường văn hóa và
nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân. Năm 1998, sau khi Nghị quyết Trung ương
5 (khóa VIII) của Đảng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” được ban hành, Đảng, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã
ban hành hơn 140 nghị quyết, chỉ thị, luật, nghị định, quyết định... liên quan
đến lĩnh vực văn hóa nhằm tạo cơ chế, hành lang pháp lý thuận lợi thúc đẩy văn
hóa của đất nước phát triển.
Không ngẫu nhiên mà có
tổ chức quốc tế đã từng đánh giá dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc hạnh
phúc và có chỉ số lạc quan thuộc loại cao hàng đầu trên thế giới. Dù rất thận
trọng khi tiếp nhận lời đánh giá đó từ bên ngoài, nhưng xem xét một cách khách
quan, điều nhận định ấy ít nhiều có cơ sở. Bởi khi nhìn vào một quốc gia, ngoài
sức mạnh vật chất và tiềm lực kinh tế, người ta còn xem xét cả sức mạnh văn hóa
và tiềm lực tinh thần của cộng đồng dân tộc. Việt Nam tuy chưa phải là một quốc gia
có tiềm lực kinh tế mạnh, song đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân đã và
đang trên đà phát triển lành mạnh. Người dân ngày càng có điều kiện hưởng thụ
các giá trị văn hóa tốt đẹp không chỉ ở trong nước, mà còn tiếp nhận những tinh
hoa văn hóa của nhân loại để không ngừng làm giàu đời sống tâm hồn của mình.
Thành quả đó có được là nhờ công cuộc “chấn hưng văn hóa” từ năm 1986 đến nay.
Khi nhìn nhận, đánh giá
về bức tranh văn hóa ở Việt Nam, thời gian qua, nhìn từ một số hoạt động văn
hóa thiếu lành mạnh, chưa chuẩn mực trong đời sống xã hội, một số ý kiến vội vã
cho rằng, môi trường văn hóa xã hội bị vẩn đục, đời sống văn hóa của người dân
nghèo nàn, tù túng; văn hóa đạo đức xuống cấp trầm trọng. Những ý kiến trên hoặc
là nhìn nhận theo kiểu “thầy bói xem voi”, thiếu thấu đáo, khách quan, toàn diện
do chỉ nhìn vào hiện tượng hời hợt bên ngoài rồi quy kết thành bản chất; hoặc
là cố tình “nghiêm trọng hóa vấn đề” do cái nhìn thiếu thiện chí, động cơ chính
trị lệch lạc, sai trái. Dù trong thực tế, đời sống văn hóa của một bộ phận người
dân chưa phong phú, văn hóa đạo đức có mặt xuống cấp, hiện tượng sùng bái văn
hóa nước ngoài chưa được ngăn chặn hiệu quả, một số hoạt động văn hóa thiếu
lành mạnh chưa bị đẩy lùi... nhưng những hạn chế, bất cập đó không phải là
“dòng chủ lưu chính” của văn hóa Việt Nam. Do đó, khi xem xét, đánh giá về
thành tựu văn hóa của một đất nước, phải nhìn toàn diện từ hệ thống cơ chế,
chính sách, pháp luật đến quá trình triển khai tổ chức thực hiện và đặc biệt là
hiện thực sinh động đời sống văn hóa của các tầng lớp nhân dân.
Ngày nay,
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội nước ta ngày càng chủ động
tham gia hội nhập sâu rộng với thế giới và những thành tựu về văn hóa đã minh
chứng con đường đổi mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta được khởi xướng từ
năm 1986 là hoàn toàn đúng đắn, hợp xu thế thời đại và là tiền đề, động lực để
thúc đẩy đất nước ta tiếp tục phát triển trong những năm tới.
NQTW9 khóa XI xác định: Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội- quan điểm nhân văn, đúng đắn của Đảng CSVN
Trả lờiXóaNgày nay, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội nước ta ngày càng chủ động tham gia hội nhập sâu rộng với thế giới và những thành tựu về văn hóa đã minh chứng con đường đổi mới của Đảng, Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, hợp xu thế thời đại và là tiền đề, động lực để thúc đẩy đất nước ta tiếp tục phát triển trong những năm tới.
Trả lờiXóa