Kỷ niệm 100 năm cách mạng tháng 10 Nga, các thế lực thù địch lại tuyên
truyền sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Chúng
cho rằng các nước hiện nay vẫn theo con đường đi lên CNXH là sai lầm theo vết
xe đổ của Liên Xô trước đây. Chúng ta khẳng định CNXH không
hề diệt vong. Các nước XHCN còn lại không những giữ vững trận địa mà
còn định hướng vững vàng cho sự phát triển tiến lên. Đi lên CNXH là lựa chọn
duy nhất đúng.
Quan điểm "phê phán quan điểm
cho rằng CNXH sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì thế Việt Nam không nên
và không thể gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH" không phải bây giờ
mới có mà đã có từ lâu, từ sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Nhưng từ
đó đến nay, những kẻ chống đối không còn nói nhẹ nhàng như thế, họ thẳng thừng
đòi "Đảng Cộng sản Việt Nam tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ
đường lối sai lầm về xây dựng CNXH, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ,
trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách
kiên quyết nhưng ôn hòa...". Và đến thời điểm chúng ta đang tiến hành
"phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ", có người mang danh đảng viên, còn ngạo mạn
nói rằng, trong lựa chọn đường lối, Đảng ta đã sai lầm không chỉ từ Hội nghị
thành lập Đảng (năm 1930) mà là từ Hội nghị Tua (năm 1921). Ý tứ đằng sau những
giọng điệu ấy là gì, chắc mỗi người chúng ta đều biết.
Với quan điểm ấy, họ đã sai lầm ít nhất là ở 8 điểm sau đây:
Về sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu:
Thứ nhất: Sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một
mô hình xây dựng CNXH, chứ không phải sự sụp đổ của CNXH nói chung, với tư cách
là một nấc thang phát triển của xã hội loài người, theo quan điểm của Chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Thứ hai: Chế độ Xô viết ngay từ lúc mới ra đời ở Nga sau Cách
mạng Tháng Mười (năm 1917) và sau này trên toàn Liên bang Xô viết, đã tỏ rõ được
tính ưu việt so với các chế độ chính trị-xã hội trước đó. Chính quyền Xô viết
thực sự là chính quyền của công-nông-binh và của nhân dân lao động nói chung.
Nhờ tính ưu việt đó, nó đã đánh thắng cuộc chiến tranh can thiệp của các nước đế
quốc sau Cách mạng Tháng Mười, lập lại hòa bình và xây dựng chế độ mới, thực hiện
công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp thành công, đánh thắng cuộc chiến
tranh xâm lược của phát xít Đức-Nhật, dẫn tới sự ra đời của hệ thống XHCN thế
giới. Vào thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20 sự nghiệp xây dựng CNXH ở Liên Xô đạt
được những thành công lớn, khiến cho Đảng và Nhà nước Xô viết ngộ nhận là CNXH
đã xây dựng xong và chủ trương Liên Xô bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng
sản. Sự thật thì cũng thời gian đó, nhiều nhược điểm và khuyết tật trong nội bộ
Nhà nước Xô viết cũng bắt đầu hé lộ, nhất là khi so sánh với những bước phát
triển của hệ thống tư bản chủ nghĩa thời đó. Nếu vì sự sụp đổ sau này mà phủ nhận
sạch trơn những gì chế độ Xô viết đã giành được là một sai lầm trong cách nhìn
lịch sử.
Thứ ba: Vào những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của
thế kỷ 20, sau khi phát hiện sự chậm trễ của mình, Liên Xô đề ra chính sách cải
tổ; các nước XHCN Đông Âu cũng đề ra cải cách. Cải tổ và cải cách nhằm
mục tiêu tăng tốc về kinh tế và thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi hơn. Sai lầm
của Liên Xô và các nước Đông Âu lúc đó là đã sa vào chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng
đối lập, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang, dao động trong
đông đảo quần chúng, dẫn đến hỗn loạn xã hội, khiến cho ở Đông Âu, chính quyền
bị các thế lực thù địch cướp lấy, còn Liên Xô thì chia rẽ sâu sắc trong nội bộ
lãnh đạo, cuối cùng chính quyền cũng lọt vào tay nhóm chống đối trong Bộ Chính
trị, những kẻ chống chính quyền Xô viết từ rất sớm. Không thấy nguyên nhân trực
tiếp của sự sụp đổ là ở đây, mà coi sự sụp đổ là tất yếu của chính quyền Xô viết
cũng là sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
Thứ tư: Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên (tuy chưa
hết), còn có một nguyên nhân trực tiếp khác nữa là âm mưu và thủ đoạn trong chiến
lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đế quốc chủ nghĩa.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, chúng đẩy mạnh chạy đua vũ trang. Trong khi
lãnh đạo Liên Xô chủ trương thi đua hòa bình thì chúng một mặt đẩy mạnh chạy
đua vũ trang, mặt khác đề ra chiến lược "diễn biến hòa bình" để xóa bỏ
CNXH mà không cần chiến tranh và súng đạn. Liên Xô và nhiều nước khác đã sa vào
cái bẫy này của chúng mà không tự giác phát hiện.
Về sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở Việt Nam .
Thứ năm: Đúng là ngay từ ngày mới thành lập, Đảng ta đã đề ra
chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
chủ nghĩa cộng sản". Như cách nói ngày nay, đó là làm cách mạng giải phóng
dân tộc, tiến lên làm cách mạng XHCN. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH được đề ra xuất phát từ thực tế tình hình nước ta lúc bấy giờ là thuộc địa
của Pháp, cũng xuất phát từ xu thế phát triển có tính quy luật của thời đại mới
sau Cách mạng Tháng Mười Nga là tiến lên CNXH. 87 năm qua, những chặng đường
phát triển của cách mạng Việt Nam và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
đạt được đã chứng minh sự đúng đắn của đường lối này, cớ sao vì sự sụp đổ ở
Liên Xô và Đông Âu mà phải từ bỏ nó?
Thứ sáu: Trong xây dựng CNXH, Việt Nam học tập kinh nghiệm của Liên Xô
và các nước XHCN đi trước nhưng hoàn toàn không có sự sao chép. Mô
hình xây dựng CNXH ở Việt Nam không phải là mô hình Xô viết của Liên Xô, bởi sự
khác biệt cơ bản là ở chỗ, một bên là từ cơ sở của chế độ tư bản đi lên, một
bên từ độc lập dân tộc đi lên. Bác Hồ từng nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1).
CNXH đối với Bác, như ngày nay chúng ta vẫn nói, là dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Nhầm lẫn giữa mô hình xây dựng CNXH ở Việt Nam với mô hình
Xô viết là một sự sai lầm lớn.
Thứ bảy: Vào những năm Liên Xô và Đông Âu tiến hành cải tổ và
cải cách, Việt Nam cũng đề ra đuờng lối đổi mới. Những nhân tố đầu tiên của đổi
mới xuất hiện từ những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ 20, nhưng đổi mới
toàn diện trở thành đường lối chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam vào cuối
năm 1986 theo Nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Đổi mới của chúng ta không đi
theo vết xe đổ của cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu. Đảng ta đã nêu rõ 6
nguyên tắc của đổi mới, trong đó vấn đề giữ vững định hướng XHCN, đổi mới
chứ không đổi màu là nguyên tắc đầu tiên. Chúng ta cũng bác bỏ quan điểm cho rằng
“đổi mới là nửa vời, không nhất quán”. Sự thật là đổi mới của chúng ta qua hơn
30 năm đã đưa lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho Việt Nam
càng vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc và CNXH. Đánh đồng đổi mới
của Việt Nam với cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu là một sai lầm có dụng
ý.
Thứ tám: Tổng kết 30 năm đổi mới cho thấy: Nhận thức của Đảng
ta về CNXH và về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"(2) .
Cương lĩnh nêu lên 8 đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng,
trong đó 3 đặc trưng đầu tiên là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
Thử hỏi, con đường độc lập dân tộc đi lên CNXH xán lạn như vậy tại
sao chúng ta phải từ bỏ chỉ vì mô hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ?
Trong khi nêu lên 8 sai lầm cơ bản như trên, người viết bài này muốn
đặt ra câu hỏi đối với các tác giả đòi chúng ta từ bỏ con đường XHCN, ý đồ
thực sự của các vị phía sau đòi hỏi này là gì?
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.4, tr.187.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr.70.
Bài viết rất ý nghĩa
Trả lờiXóa