Sự sụp đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu cuối thập niên 80 đầu thập niên 90
là một cơn động đất chính trị lớn của thế kỷ XX. Nó có ảnh hưởng lớn không chỉ
đối với thế giới xã hội chủ nghĩa và độc lập dân tộc mà còn cả đối với thế giới
tư bản chủ nghĩa.
Các ông trùm chiến
lược, chiến lược gia và chính khách cỡ bự của chủ nghĩa tư bản đều hoan hỷ ăn mừng
rằng đây là hồi chuông báo tử, rằng chủ nghĩa xã hội sẽ diệt vong vào cuối thế
kỷ XX.
Với quan điểm ấy, họ
đã sai lầm ít nhất là ở 8 điểm sau đây, khi đề cập đến sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô
và Đông Âu, cũng như sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam:
Thứ nhất: Sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô và Đông Âu
là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng CNXH, chứ không phải sự sụp đổ của CNXH
nói chung, với tư cách là một nấc thang phát triển của xã hội loài người, theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai: Chế độ Xô viết ngay từ lúc mới ra đời
ở Nga sau Cách mạng Tháng Mười (năm 1917) và sau này trên toàn Liên bang Xô viết,
đã tỏ rõ được tính ưu việt so với các chế độ chính trị - xã hội trước đó. Chính
quyền Xô viết thực sự là chính quyền của công - nông - binh và của nhân dân lao
động nói chung. Nhờ tính ưu việt đó, nó đã đánh thắng cuộc chiến tranh can thiệp
của các nước đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười, lập lại hòa bình và xây dựng chế
độ mới, thực hiện công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp thành công, đánh
thắng cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức - Nhật, dẫn tới sự ra đời của
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Vào thập niên 60 và 70 của thế kỷ XX sự
nghiệp xây dựng CNXH ở Liên Xô đạt được những thành công lớn, khiến cho Đảng và
Nhà nước Xô viết ngộ nhận là CNXH đã xây dựng xong và chủ trương Liên Xô bước
vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự thật thì cũng thời gian đó, nhiều
nhược điểm và khuyết tật trong nội bộ Nhà nước Xô viết cũng bắt đầu hé lộ, nhất
là khi so sánh với những bước phát triển của hệ thống tư bản chủ nghĩa thời đó.
Nếu vì sự sụp đổ sau này mà phủ nhận sạch trơn những gì chế độ Xô viết đã giành
được là một sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
Thứ ba: Vào những năm cuối thập niên 70, đầu
thập niên 80 của thế kỷ XX, sau khi phát hiện sự chậm trễ của mình, Liên Xô đề
ra chính sách cải tổ; các nước XHCN Đông Âu cũng đề ra cải cách. Cải tổ và cải
cách nhằm mục tiêu tăng tốc về kinh tế và thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi
hơn. Sai lầm của Liên Xô và các nước Đông Âu lúc đó là đã sa vào chủ nghĩa đa
nguyên, đa đảng đối lập, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang,
dao động trong đông đảo quần chúng, dẫn đến hỗn loạn xã hội, khiến cho ở Đông
Âu, chính quyền bị các thế lực thù địch cướp lấy, còn Liên Xô thì chia rẽ sâu sắc
trong nội bộ lãnh đạo, cuối cùng chính quyền cũng lọt vào tay nhóm chống đối
trong Bộ Chính trị, những kẻ chống chính quyền Xô viết từ rất sớm. Không thấy
nguyên nhân trực tiếp của sự sụp đổ là ở đây, mà coi sự sụp đổ là tất yếu của
chính quyền Xô viết cũng là sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
Thứ tư: Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan
nêu trên (tuy chưa hết), còn có một nguyên nhân trực tiếp khác nữa là âm mưu và
thủ đoạn trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, chúng đẩy mạnh chạy
đua vũ trang. Trong khi lãnh đạo Liên Xô chủ trương thi đua hòa bình thì chúng
một mặt đẩy mạnh chạy đua vũ trang, mặt khác đề ra chiến lược "diễn biến
hòa bình" để xóa bỏ CNXH mà không cần chiến tranh và súng đạn. Liên Xô và
nhiều nước khác đã sa vào cái bẫy này của chúng mà không tự giác phát hiện.
Thứ năm: Đúng là ngay từ ngày mới thành lập,
Đảng ta đã đề ra chủ trương: "làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản".
Như cách nói ngày nay, đó là làm cách mạng giải phóng dân tộc, tiến lên làm
cách mạng XHCN. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được đề ra xuất
phát từ thực tế tình hình nước ta lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp, cũng xuất
phát từ xu thế phát triển có tính quy luật của thời đại mới sau Cách mạng Tháng
Mười Nga là tiến lên CNXH. 87 năm qua, những chặng đường phát triển của cách mạng
Việt Nam và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đạt được đã chứng minh sự
đúng đắn của đường lối này, cớ sao vì sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu mà phải từ
bỏ nó?
Thứ sáu: Trong xây dựng CNXH, Việt Nam học tập
kinh nghiệm của Liên Xô và các nước XHCN đi trước nhưng hoàn toàn không có sự
sao chép. Mô hình xây dựng CNXH ở Việt Nam không phải là mô hình Xô viết của
Liên Xô, bởi sự khác biệt cơ bản là ở chỗ, một bên là từ cơ sở của chế độ tư bản
đi lên, một bên từ độc lập dân tộc đi lên. Bác Hồ từng nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Chủ nghĩa xã
hội đối với Bác, như ngày nay chúng ta vẫn nói là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ bảy: Vào những năm Liên Xô và Đông Âu tiến
hành cải tổ và cải cách, Việt Nam
cũng đề ra đường lối đổi mới. Những nhân tố đầu tiên của đổi mới xuất hiện từ
những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, nhưng đổi mới toàn diện trở thành
đường lối chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam vào cuối năm 1986 theo Nghị quyết
Đại hội VI của Đảng. Đổi mới của chúng ta không đi theo vết xe đổ của cải tổ và
cải cách ở Liên Xô và Đông Âu. Đảng ta đã nêu rõ 6 nguyên tắc của đổi mới,
trong đó vấn đề giữ vững định hướng XHCN, đổi mới chứ không đổi màu là nguyên tắc
đầu tiên. Chúng ta cũng bác bỏ quan điểm cho rằng “đổi mới là nửa vời, không nhất quán”. Sự thật là đổi mới của chúng
ta qua hơn 30 năm đã đưa lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm
cho Việt Nam càng vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc và CNXH. Đánh
đồng đổi mới của Việt Nam
với cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu là một sai lầm có dụng ý.
Thứ tám: Tổng kết 30 năm đổi mới cho thấy: Nhận
thức của Đảng ta về CNXH và về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng
sáng tỏ hơn.
Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử".
Cương lĩnh nêu lên 8
đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng, trong đó 3 đặc trưng đầu tiên là:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp.
Thử hỏi, con đường độc
lập dân tộc đi lên CNXH sáng lạng như vậy tại sao chúng ta phải từ bỏ chỉ vì mô
hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ?
Từ bỏ Chủ nghĩa xã hội nhất định
là một sai lầm lớn./.
Mọi người dân Việt Nam phải luôn nêu cao cảnh giác, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của những phần tử phản động
Trả lờiXóa