Trong những năm 1945 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một tầm nhìn
chính trị vượt trội, mang tính cách mạng và khoa học khi giải quyết vấn đề lợi
ích chính trị giữa cách mạng Việt Nam và Hoa Kỳ trong bối cảnh lịch sử đầy biến
động của thời đại sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với những thay
đổi bước đầu trong vị thế chính trị của các nước lớn và sự lớn mạnh của phong
trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa.
Giai đoạn 1945 -
1946: Hợp tác giữa Việt Minh và Hoa Kỳ trong cuộc đấu tranh chung chống chủ
nghĩa phát xít
Mặt trận Việt Minh
thành lập vào ngày 19-5-1941 với mục đích công khai là “liên hiệp tất cả các
tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước,
đang cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng
lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Có thể nhận thấy rằng, Mặt trận Việt
Minh là đại biểu cho sự đoàn kết, thống nhất ý chí, nguyện vọng của dân tộc
Việt Nam .
Trên cơ sở thực tiễn
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1945 - 1946, xuất phát từ xu hướng chính trị
và tương quan lực lượng chính trị giữa các giai cấp, các đảng phái cách mạng
trong và ngoài nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định rằng, cách mạng Việt Nam
mà trực tiếp là Mặt trận Việt Minh - lực lượng yêu nước Việt Nam cần có chân
trong phe Đồng Minh chống phát xít Nhật ở Viễn Đông. Có như vậy, cách mạng Việt
Nam
mới nhận được sự ủng hộ, tạo điều kiện và giúp đỡ của các nước Đồng Minh trong
công cuộc giải phóng dân tộc. Trong đó, Hoa Kỳ là lực lượng mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất quan tâm và mong muốn được cộng tác hơn cả.
Trong quá trình ra đi
tìm con đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã học hỏi và rút ra được nhiều
kết luận quan trọng. Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh (năm
1927), Người nhận định: “Cách mạng Việt Nam cũng là một bộ phận trong cách mạng
thế giới. Ai làm cách mạng trên thế giới đều là đồng chí của nhân dân Việt Nam ”(1). Trước
bối cảnh Việt Nam giai đoạn 1945 - 1946, Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch
Hồ Chí Minh với nhãn quan chính trị sáng suốt đã nhận định cách mạng Việt Nam
và cách mạng thế giới đều chung một mặt trận, những chiến sĩ cách mạng trên thế
giới đều là đồng chí của cách mạng Việt Nam, sát cánh cùng nhân dân Việt Nam.
Khi Chiến tranh Thế
giới thứ hai nổ ra, phe phát xít đã châm ngòi và gây ra hàng loạt các cuộc
chiến tranh. Nhân dân tiến bộ trên thế giới không ngừng lên án cuộc chiến tranh
của quân phát xít. Nhân dân thế giới phải liên minh với nhau trong phe Đồng
minh để chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình và quyền con người
của nhân loại.
Lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam
đã chứng minh, mỗi khi đất nước bị ngoại quốc xâm lăng, đô hộ, nhân dân Việt Nam chưa bao
giờ chịu khuất phục, luôn đứng lên khởi nghĩa, chiến đấu để giải phóng dân tộc.
Khi phát xít Nhật nhảy vào Việt Nam thì thực dân Pháp đã nhanh chóng dâng Đông
Dương cho Nhật. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã phải đảm nhận thêm một nhiệm vụ cách mạng, đó là đánh đuổi Nhật - Pháp giành
độc lập dân tộc. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta vì vậy đã không còn bó hẹp trong
phạm vi quốc gia mà trở thành một nhân tố tích cực trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa phát xít cùng với các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Do vậy, mọi dân tộc
trên thế giới đang chống phát xít, chống chiến tranh trên thế giới đều là bè
bạn của cách mạng Việt Nam, “dù ở châu Á, châu Phi hay Mỹ Latinh, các dân tộc
đấu tranh cho hòa bình và nhân dân các nước chiến đấu để tự giải phóng đều
chung tay trong một mặt trận”(2). Hoa Kỳ là một nước nằm trong phe Đồng minh
chống phát xít và tham gia chống phát xít Nhật ở Viễn Đông. Như vậy, nhân dân,
cách mạng Việt Nam
và Hoa Kỳ có kẻ thù chung, chung một mặt trận, điều này giúp cho hai bên hợp
tác với nhau vì mục tiêu chung. Đoàn kết, thống nhất, xây dựng và tập hợp lực
lượng, tìm bạn đồng minh và phân hóa kẻ thù vừa là chiến lược cách mạng, vừa
thể hiện sự chỉ đạo sách lược của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. “Đoàn kết các
lực lượng trong một mặt trận chung, dựa trên nền tảng những giai cấp cơ bản và
những lợi ích chung là vấn đề được Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh rất quan tâm và
thực hiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc”(3). Mục tiêu
của cách mạng Việt Nam
lúc này là giải phóng dân tộc, tất cả các mục tiêu khác đều phải gác lại và
phục vụ cho mục tiêu chung nhất.
Phong trào cách mạng
Việt Nam trong năm 1945 có những bước phát triển to lớn là bởi sự thay đổi
chiến lược trong tư duy của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc xác định
phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đặc biệt trong việc hợp tác với Cơ
quan tình báo chiến lược Hoa Kỳ (OSS). “Dưới mật danh Licius, Hồ Chí Minh đã
cung cấp cho tổ chức tình báo Mỹ OSS những tin tức tình báo về lực lượng Nhật
(ở Đông Dương) (…) và các du kích quân của ông đã cứu thoát 17 phi công Mỹ bị
(Nhật) bắn hạ”(4) trong lúc tiến hành các cuộc ném bom ở Đông Dương. Chính mối
quan hệ hợp tác này đã tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam và Hoa Kỳ
có thể bắt tay với nhau vì mục tiêu chung trước mắt.
Giai đoạn 1945 -
1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định Hoa Kỳ là bạn đồng minh trong cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc của cách mạng Việt Nam
Độc lập dân tộc là vấn
đề quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1946. Như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh trong cuộc nói chuyện với L. A. Patti: “Quyền
sống - sự sống còn - đó là lý tưởng cao cả nhất của cuộc cách mạng”. Khi liên
hệ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của cách mạng Việt Nam năm 1945 với
cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của người Anh do 13 thuộc địa của Mỹ tiến
hành năm 1775 và Tuyên bố độc lập năm 1776, ta thấy có nhiều sự liên hệ và
tương đồng. Bởi cuộc Cách mạng Mỹ cũng là cuộc đấu tranh chống lại chế độ thực
dân để giành lại độc lập và thống nhất quốc gia. Nhà khoa học chính trị S. M.
Lipset nhận định, “Hoa Kỳ là thuộc địa lớn đầu tiên thành công chống lại sự cai
trị của chính quyền thuộc địa. Trong ý nghĩa này, đây là 'quốc gia mới' đầu
tiên”. Chính vì vậy, mới có sự việc năm 1919, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Bản yêu
sách tám điểm tới Hội nghị Véc-xây đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân An
Nam - một nước thuộc địa nhỏ bé ở Đông Dương. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm tìm hiểu, nghiên cứu nước Mỹ và Cách mạng Mỹ để có những nhận thức khách
quan, khoa học về hai cuộc đấu tranh giành độc lập của hai nước với những khác
biệt về địa chính trị - xã hội. Từ đó, việc thiết lập mối quan hệ hợp tác với
Hoa Kỳ trong cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc những năm 1945 -
1946 đã thể hiện một tầm nhìn chính trị mang tính lịch sử và chứa đựng những
giải pháp chính trị mang dấu ấn cá nhân đặc sắc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Trong những năm từ 1942
đến 1944, vấn đề tự do của tất cả các dân tộc phụ thuộc đã trở thành một vấn đề
quan trọng và Hoa Kỳ đã cam kết thực hiện nguyên tắc về quyền tự quyết của các
dân tộc thông qua việc cùng với Anh ra Tuyên bố chung Đại Tây Dương.
Vào năm 1942, vấn đề này một lần nữa được nhấn mạnh và khẳng định trong dịp 26
quốc gia thông qua Hiến chương Đại Tây Dương. Tháng 6-1945, Hiến chương Liên
hợp quốc được ký kết nhằm thống nhất tư tưởng chung trong việc thiết lập, xây
dựng hòa bình và an ninh quốc tế. Bản Hiến chương đã thừa nhận nguyên tắc đặt
quyền lợi của nhân dân các lãnh thổ không tự trị lên hàng đầu. Như vậy, trong
và sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện các điều kiện, những cơ hội,
cũng như khả năng cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc thực hiện quyền dân
tộc tự quyết. Và Hoa Kỳ là một nước nổi lên trong việc cam kết thực hiện và tôn
trọng “quyền tự do phát triển”, “quyền lựa chọn được sống dưới một chính thể
nào đó của các dân tộc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy điều này và Người đã
sớm rút ra kết luận là phải tranh thủ cảm tình của nước Hoa Kỳ trong cuộc đấu
tranh giành độc lập của Việt Nam .
Bởi, Người hiểu rất rõ rằng: Nhất định là khi có cơ hội, Pháp sẽ đòi lại Đông
Dương làm thuộc địa.
Sau khi Chiến tranh thế
giới thứ hai kết thúc với thắng lợi thuộc về phe Đồng minh, tương quan lực
lượng chính trị giữa các nước lớn như Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc đã có
những thay đổi. Nắm rõ sự thay đổi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những trù
tính trong việc xác định các mối quan hệ đồng minh chiến lược, sách lược nhằm
mang lại những thuận lợi, dù là nhỏ bé nhất cho cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng mối quan hệ có
tính cách mạng với Hoa Kỳ trong những năm 1944 - 1945. Mặt khác, khi cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đang bước vào giai đoạn quyết định với những
tình thế và thời cơ hiếm có trong năm 1945, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh nỗ lực
thiết lập mối quan hệ với một nước lớn như Hoa Kỳ là một bước đi chính trị khôn
ngoan nhằm tạo uy thế lớn cho nền độc lập và cuộc đấu tranh chính nghĩa của
cách mạng Việt Nam.
Hoa Kỳ là một nước đế
quốc mang tư tưởng chống lại chế độ thực dân (tất nhiên tư tưởng này là để phục
vụ cho lợi ích của đế quốc Mỹ), trong đó có sự cai trị của thực dân Pháp ở Đông
Dương. Là một nhà chính trị lão luyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ được tâm tư
của Mỹ trong vấn đề Đông Dương và Việt Nam khi Tổng thống Mỹ F. D. Roosevelt
mong muốn thiết lập một chế độ ủy trị ở đây. Tuy tư tưởng đó không giải quyết
được một cách triệt để vấn đề độc lập cho Việt Nam
nhưng đây vẫn là một tư tưởng tiến bộ hơn so với sự cai trị của thực dân của
Pháp ở Việt Nam .
Do đó, trong giai đoạn 1945 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự thông hiểu sâu
sắc tình hình chính trị thế giới, bằng mọi nỗ lực chính trị của bản thân, Người
đã cố gắng xây dựng mối giao hảo tốt đẹp với cơ quan tình báo OSS để tranh thủ
sự ủng hộ, giúp đỡ của Hoa Kỳ trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam.
Trong và sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, Liên Xô chưa thực sự quan tâm đến vấn đề Đông Dương, cũng như
cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam bởi nước này còn nhiều vấn đề trong
và ngoài nước phải thực hiện sau khi cuộc chiến tranh kết thúc. Hiểu rõ được
điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam cần phải tìm kiếm sự
công nhận và ủng hộ từ một lực lượng khác và Người đã chia sẻ với L. A. Patti
suy nghĩ của mình trong vấn đề tìm kiếm bạn đồng minh cho cuộc đấu tranh giành
độc lập của dân tộc Việt Nam: “Tôi đặt nhiều tin tưởng vào Mỹ trong việc ủng hộ
cho nền độc lập của Việt Nam, trước khi tôi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của
Liên Xô”(5). Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh hợp tác với OSS, cũng như tiếp xúc với
các cá nhân L. A. Patti, C. Penn…, đã trở thành một phương pháp cách mạng mẫu
mực, điển hình trong việc tìm kiếm bạn đồng minh; phân hóa, cô lập kẻ thù để
từng bước mang lại những lợi ích thiết thực, cụ thể cho công cuộc giải phóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam. Nhờ đó mà cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn 1945 - 1946 đã tránh được những sự đụng độ không đáng có với quân đội của
Tưởng Giới Thạch và các lực lượng phản động trong và ngoài nước. Qua đó, có thể
nhận thấy rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng một tầm nhìn vượt trội và khả năng
định hướng tâm lý, cảm hóa, thuyết phục xuất chúng đã có những giải pháp chính
trị cụ thể, hiệu quả với từng tổ chức, cá nhân của quân đội Hoa Kỳ.
Tầm nhìn chính trị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ giai đoạn 1945 - 1946, một
mặt được thể hiện trong đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương đối
với những vấn đề lớn của quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là: chống
chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, góp phần giữ gìn ổn định ở Đông Dương và
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mặt khác, mối quan hệ chính trị đặc biệt giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ trong giai đoạn này thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén,
sáng suốt và bản lĩnh chính trị kiên cường của nhà cách mạng Hồ Chí Minh. Với
một tư duy mạnh mẽ, sáng tạo và những phương pháp cách mạng đúng đắn, hiệu quả,
nền độc lập dân tộc của Việt Nam đã được giành lại sau hơn 80 năm bị thực dân
Pháp đàn áp, thống trị.
Không chỉ có vậy, tầm
nhìn chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã vượt
qua những hạn chế về mặt lịch sử của thời đại, của cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, của bối cảnh lịch sử hai nước trong những năm
40 của thế kỷ XX. Cơ sở sâu xa của tầm nhìn đó là yêu cầu, khát vọng hòa bình,
độc lập của dân tộc Việt Nam .
Bằng khả năng nhận biết và xử lý mâu thuẫn dân tộc và thời đại một cách sáng
tạo, linh hoạt với một nghệ thuật chính trị khoa học, điển hình, mẫu mực, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đặt những nền móng đầu tiên cho mối quan hệ lịch sử giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ bằng chính khát vọng tự do và thực tiễn cuộc đấu tranh cho
độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam trong những năm 1945 - 1946.
Thế giới ngày nay đã và
đang trải qua những thay đổi lớn lao về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội;
cục diện địa chính trị toàn cầu đã có bước đảo chiều theo xu hướng đa phương.
Vì vậy, mối quan hệ giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ cũng có sự biến thiên
không ngừng và tiềm ẩn những nhân tố hết sức phức tạp. Các vấn đề của toàn cầu
hóa, an ninh quốc tế, phát triển kinh tế, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường…
đặt các quốc gia có cùng lợi ích hướng đến các mục tiêu chung là hòa bình, ổn
định và phát triển bền vững. Trong bối cảnh ấy, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã
có những bước phát triển theo phương châm: Khép lại quá khứ, vượt qua khác
biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai. Trong những năm gần đây, tầm
nhìn cho quan hệ hai nước là hướng đến mục tiêu: làm sâu sắc quan hệ đối tác
lâu dài, toàn diện và tăng cường hợp tác, đối thoại trên các vấn đề khu vực và
toàn cầu; vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới./. ST
Bài viết rất ý nghĩa
Trả lờiXóa