“Diễn biến hòa bình” từ khi chỉ là ý tưởng (cuối những
năm 40 của thế kỷ XX), đến khi trở thành chiến lược hoàn chỉnh (cuối thập kỷ 80
của thế kỷ XX), bao giờ cũng là bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản
cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, nhằm mục đích xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội
trên mọi phương diện. Từ khi ra đời đến nay, nó luôn được các thế lực thù địch
triệt để tận dụng với sự phát triển, gia tăng những thủ đoạn mới, ngày càng xảo
quyệt, tinh vi, nguy hiểm hơn. Bởi vậy, chúng ta phải luôn cảnh giác với mưu đồ
đó và có đối sách đấu tranh kiên quyết, hiệu quả.
“Diễn biến hòa bình” (DBHB) là cuộc chiến thầm
lặng nhưng hết sức quyết liệt nhằm tiến công vào các mục tiêu bên trong cả về
chính trị, kinh tế, tư tưởng, lý luận, văn hóa, nghệ thuật, an ninh - quốc
phòng; khoét sâu mâu thuẫn, phá vỡ sự thống nhất về tư tưởng, ý chí trong Đảng
Cộng sản (ĐCS), làm cho nội bộ suy yếu, tự diễn biến, tự chuyển hóa. Đối với Việt
Nam, mục tiêu nhất quán của
các thế lực thù địch trong sử dụng chiến lược “DBHB” là xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của ĐCS Việt Nam
và chế độ XHCN, lái nước ta đi theo con đường TBCN, lệ thuộc vào chủ nghĩa đế
quốc,... Để đạt được mục tiêu đó, chúng không từ bỏ bất kỳ mưu đồ nào, chống
phá ta một cách toàn diện, với nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Thông qua chiến
lược “DBHB”, chúng đánh thẳng vào nhận thức, tư tưởng của người dân, biến những
việc đơn giản thành phức tạp, cá biệt thành phổ biến, những điều dễ hiểu thành
khó hiểu, đánh tráo khái niệm, thực hiện trò “đánh lận con đen” nhằm lôi kéo những
người hạn chế về nhận thức chính trị phục vụ cho mưu đồ của chúng. Không khó hiểu,
khi trong suốt nhiều năm, nhất là thời gian gần đây, ở hải ngoại, bà con trong
cộng đồng người Việt thường nghe các tổ chức chống cộng cực đoan, các đảng phái
phản động người Việt ra rả tuyên truyền, xuyên tạc, đòi tự do “dân chủ”, “nhân
quyền” ở Việt Nam thông qua các cuộc biểu tình, hội họp và trên vô số các trang
mạng điện tử. Việc làm đó luôn có các tổ chức, cá nhân không có thiện cảm với
Việt Nam đứng đằng sau cổ súy, kích động, gây hỏa mù, tài trợ để can thiệp vào
công việc nội bộ của nước ta.
Sự chống phá Việt Nam thông qua chiến lược “DBHB”của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không phải bây giờ mới diễn ra mà âm
mưu đó đã có từ lâu. Từ đầu năm 1950 đến 1975, chủ nghĩa đế quốc dùng hành động
quân sự xâm lược với âm mưu biến Việt Nam thành thuộc địa của chúng nhưng
cuối cùng đã bị thất bại. Cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam đã kết thúc thắng lợi với mốc
son chói lọi ngày 30/4/1975, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả
nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi sử dụng phương thức tấn công
quân sự không thành, chúng chuyển sang chiến lược mới, như: “bao vây, cấm vận
kinh tế”, “cô lập về ngoại giao” kết hợp với “DBHB”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ
chế độ XHCN ở Việt Nam.
Trong thời kỳ này, lợi dụng việc nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội
(từ năm 1975 - 1994) do hậu quả của chiến tranh để lại và sự biến động chế độ
XHCN ở Liên Xô, Đông Âu, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh “DBHB”,
nói xấu Đảng, chế độ, bôi nhọ danh dự các lãnh tụ,... Từ năm 1995 đến nay, trước
những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN do
ĐCS Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, các thế lực thù địch lại tiếp tục điều chỉnh
thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta. Chúng tuyên bố xoá bỏ “cấm vận kinh tế”
và bình thường hóa quan hệ ngoại giao để chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy mạnh hoạt
động xâm nhập, như: “dính líu”, “ngầm”, “sâu, hiểm” nhằm chống phá cách mạng Việt
Nam. Có thể thấy, hình thức, thủ đoạn chống phá bằng chiến lược “DBHB” cũng
thay đổi theo từng giai đoạn biến động trên trường chính trị thế giới và tình
hình trong nước. Hiện nay, thủ đoạn mới của chiến lược “DBHB” là lợi dụng ngay
các chủ trương, chính sách đổi mới để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN, với mưu đồ: Lấy lĩnh vực chính trị là then chốt; kinh tế là
lâu dài, thường xuyên; chuyển hóa Quân đội và Công an là mục tiêu trước mắt.
Theo đó, kế hoạch chiến lược của chúng là thực hiện theo lộ trình 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vào nền kinh tế
thế giới, từ đó làm chệch hướng XHCN, phát triển kinh tế thị trường TBCN. Giai
đoạn 2, hình thành “xã hội dân sự” ở Việt Nam, tạo môi trường, cơ hội để các tổ
chức chính trị đối lập xuất hiện và hoạt động công khai, gây rối loạn trật tự,
an toàn xã hội. Giai đoạn 3, thực hiện “dân chủ hóa” chính quyền các cấp, từng
bước cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, đẩy mạnh thực
hiện “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an. Để che đậy thủ đoạn đó, chúng
xuyên tạc rằng: ĐCS rất “lo sợ” có sự chính biến trong nước nên lúc nào cũng
tuyên truyền về “DBHB”. Diễn biến là do các nhà cầm quyền và ĐCS nghĩ ra, “suy
diễn thái quá”, “mắc bệnh tự kỷ”, “tự mình sợ mình”,… Mục đích của chúng là làm
cho mọi người lầm tưởng rằng không có “DHBH”, dẫn đến chủ quan, mất cảnh giác để
chúng dễ bề thực hiện mưu đồ đen tối.
Một trong những thủ đoạn thâm hiểm trong chiến
lược “DBHB” của các thế lực thù địch, phản động hiện nay là, tập trung tác động
vào quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật ở Việt Nam. Sở dĩ đây
được coi là hướng tấn công chủ yếu của “DBHB” đối với cách mạng nước ta, vì nếu
thực hiện thành công thủ đoạn này sẽ làm thay đổi chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi
theo kịch bản của chúng. Đối với Quân đội, chúng đòi “Quốc gia hóa quân đội”,
“Luật hóa mọi vấn đề về tổ chức và hoạt động của Quân đội”, thực chất là nhằm
loại bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo
của Đảng, dẫn đến “phi chính trị hóa”. Đáng tiếc là, thời gian qua, trong nội bộ
ta vẫn có những người chủ quan, mất cảnh giác, thậm chí mất cảnh giác nghiêm trọng
trước âm mưu, hoạt động “DBHB” của các thế lực thù địch, phản động. Có người
còn không tỉnh táo, bị mắc mưu, phụ họa, cổ súy cho những luận điệu của địch
đòi “đa nguyên”, “đa đảng”, đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp; đòi tam quyền phân lập
theo mô hình TBCN, xây dựng “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây, “phi
chính trị hóa” lực lượng vũ trang, “chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ
toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa”,... Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật,
còn có ý kiến thiển cận phê phán, phủ nhận những thành quả của đất nước và nhân
dân ta trên lĩnh vực này; đòi áp dụng rập khuôn những quy định, mô hình pháp luật
của thể chế chính trị tư sản vào Việt Nam,... Rõ ràng, đó là những biểu
hiện của sự giảm sút ý chí cách mạng, mất cảnh giác, không nhận rõ tính chất phức
tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn cách mạng mới, không phân biệt
rõ “đối tượng, đối tác”, mơ hồ về tư tưởng chính trị và thủ đoạn nguy hiểm của
kẻ địch. Và, một khi những quan điểm cực đoan của các thế lực thù địch về “đa
nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”, “dân chủ”, “nhân quyền”, tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, quyền của các dân tộc thiểu số được kích động sẽ chuyển thành hành động
chính trị phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ổn định xã hội, phủ nhận
thành quả giành độc lập dân tộc hơn nửa thế kỷ qua của nhân dân ta. Từ đó,
chúng đòi đưa nước ta, dân tộc ta đi theo con đường khác với mục tiêu đã lựa chọn;
làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
Thâm độc và nguy hại hơn khi sự điều chỉnh thủ
đoạn chiến lược mới của các thế lực thù địch chuyển hướng từ tập trung phủ nhận
vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam sang “có thể chấp nhận” về hình thức lãnh đạo
của Đảng, nhưng tập trung làm cho Đảng bị tha hóa, biến chất, mất lòng tin với
nhân dân, tự đánh mất vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Cùng với chống phá nền
tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng, các thế lực thù địch còn tăng cường
tác động các tổ chức quốc tế để thúc đẩy “dân chủ hóa” trong hệ thống chính trị,
trong nội bộ Đảng và bộ máy lãnh đạo Nhà nước Việt Nam; kích động sự bất đồng
chính kiến về những quyết sách chiến lược, nhất là định hướng phát triển của xã
hội Việt Nam trong giai đoạn mới; kích động gây chia rẽ, tạo sự phân hóa giữa
nhân dân và Đảng. Đồng thời, tạo lập lực lượng chính trị đối lập trong Đảng và
trong xã hội; làm xói mòn khối đoàn kết, thống nhất và cơ chế Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; chia rẽ truyền thống “chia ngọt, sẻ bùi”, gắn
bó keo sơn đã được tôi luyện trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta. Một số tổ chức phản động ở hải ngoại móc nối, lôi kéo các phần
tử cơ hội chính trị, lợi dụng chủ trương của Nhà nước về mở rộng dân chủ, cải
cách hành chính, tự do tư tưởng, tự do báo chí, viết bài tung lên mạng, hoặc được
các đài báo phương Tây, như: BBC, VOA, RFA, RFI,… móc nối, trả lời phỏng vấn,
phát tán quan điểm cá nhân, xuyên tạc, vu cáo chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước Việt Nam. Chúng lợi dụng truyền thông, báo chí là công cụ để “chuyển
hóa” Việt Nam với các thủ đoạn như: Tăng cường tiếp xúc, trao đổi, định hướng
thông tin cho đội ngũ biên tập viên các báo, đài; hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao
năng lực điều tra độc lập cho đội ngũ phóng viên thu thập thông tin, viết bài
theo định hướng của chúng; đăng tải các tin, bài nhạy cảm về những bất cập
trong hệ thống chính trị, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ; tăng cường cơ chế phản
hồi từ độc giả trên các kênh phát thanh, truyền hình, báo chí chính thống, thúc
đẩy sự hình thành và phát triển hoạt động phản biện xã hội,… Có kẻ còn kết nối
các phần tử chống đối mưu toan thành lập các tổ chức đảng chính trị phản động
nhằm lật đổ thể chế hiện hành; thực hiện cuộc tiến công phá hoại nhiều mặt hòng
làm suy yếu nền kinh tế, rối loạn về xã hội, chệch hướng đường lối chính trị, mất
sức chiến đấu của Quân đội, Công an và hạ thấp vị thế Việt Nam trên trường quốc
tế.
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật sống
còn đúc kết trong lịch sử trường tồn của dân tộc Việt năm mấy ngàn năm qua.
Phát triển quy luật đó trong thời kỳ cách mạng mới, đó chính là xây dựng CNXH gắn
với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần
nâng cao cảnh giác, nhận thức đúng và đầy đủ tính chất gay gắt và phức tạp của
cuộc đấu tranh chống “DBHB”; âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá
cách mạng của các thế lực thù địch, phản động. Từ đó, kịp thời phát hiện, đấu
tranh ngăn chặn các hành vi gây phương hại đến sự ổn định, vững mạnh và phát
triển của đất nước. Để làm thất bại thủ đoạn mới của chiến lược “DBHB”, chúng
ta phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, kịp thời giải quyết
những vấn đề thực tiễn đặt ra, không để kẻ địch lợi dụng; nâng cao bản lĩnh
chính trị, lập trường giai cấp, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
chế độ. Đồng thời, phải phân tích làm rõ thủ đoạn mới của chiến lược “DBHB”, khắc
phục mọi biểu hiện mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác, thiếu niềm tin vào tương lai
của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Làm tốt công tác xây dựng Đảng, giáo dục,
rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XII) về về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; gắn với triển khai thực
hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị. Củng
cố hệ thống chính trị vững mạnh; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ,
quản lý bí mật thông tin. Các cấp cần thực hiện nghiêm Quy chế Dân chủ cơ sở, đẩy
mạnh công tác dân vận, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Mặt khác, phải
thường xuyên chú trọng xây dựng Quân đội, Công an vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt
về chính trị, tư tưởng, thực sự làm nòng cốt trên mặt trận bảo vệ an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi
tình huống.
Mặc dù, chiến lược “DBHB” của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch đối với nước ta đang diễn ra với nhiều thủ đoạn mới,
tinh vi, nguy hiểm, nhưng với sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong xã hội,
với tinh thần cảnh giác cách mạng không ngừng, ý chí quyết tâm chiến đấu cao,
nhất định chúng ta sẽ làm thất bại mọi mưu đồ đen tối của chúng, góp phần giữ vững
ổn định chính trị, đẩy mạnh phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, tăng cường quốc
phòng - an ninh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.