Không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong Cách mạng Tháng Tám
Mấy ngày vừa qua, trên một số trang mạng xã hội xuất hiện một số bài viết có tính chất xuyên tạc về ý nghĩa lịch sử và bịa đặt một số chi tiết về cuộc Cách mạng Tháng Tám của nhân dân Việt Nam. Đây là luận điệu đã cũ mèm của một số người vốn có hiềm khích với cách mạng và đang ra sức chống lại những chủ trương, chính sách của Đảng, cổ xúy cho cái gọi là “xã hội dân chủ”. Cứ vào dịp đất nước ta kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9 thì họ lại đem vấn đề trên ra để bàn thảo.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
rõ, là do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Ðảng. Với thắng lợi đó
"Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà
giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng:
lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và
nửa thuộc địa, một Ðảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm
chính quyền toàn quốc". Đó là sự thật lịch
sử không thể phủ nhận.
Thế nhưng, vẫn cứ có quan điểm cho rằng, Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 giành thắng lợi là nhờ “ăn may” mà có(!) Đây là luận điệu sai
trái, phản khoa học, nằm trong âm mưu và chiến lược chống phá cách
mạng của các thế lực thù địch, phản động, mà trước hết là chĩa mũi
nhọn chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với những thắng lợi vĩ đại của các mạng, những sự kiện lịch sử của dân tộc
qua các thời kỳ. Trong đó, luận điệu lố bịch nêu trên về thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám chỉ là một trong những dẫn chứng điển hình.
Sự thật lịch sử là trước khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp diễn ra
sôi nổi, từ lập trường Cần Vương đến xu hướng tư sản, tiểu tư sản,
qua khảo nghiệm của lịch sử đều lần lượt thất bại. Chỉ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, với cương lĩnh, đường lối đúng đắn, phù hợp
với tình hình trong nước và quốc tế lúc bấy giờ, cách mạng Việt Nam bước sang
giai đoạn mới.
Sự lãnh đạo của Ðảng trước hết ở sự bổ sung, phát triển hoàn chỉnh hệ
thống các quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc; ở sự lựa chọn hình thức và
phương pháp cách mạng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể; ở sự tổ chức xây
dựng lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; ở
sự nhận thức tình thế và thời cơ cách mạng để đưa quần chúng vào hành động cách
mạng; ở sự chỉ đạo kiên quyết, tập trung, thống nhất trong giờ phút có ý nghĩa
quyết định đến thắng lợi.
Ðể đưa cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) đến thắng lợi bằng cuộc Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám, có ba thời điểm lịch sử thể hiện bản lĩnh chính trị và
năng lực lãnh đạo đặc biệt của Ðảng ta: đó là các hội nghị Trung ương từ cuối
năm 1939 đến đầu năm 1941 phát triển hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng
dân tộc; những quyết sách quan trọng cuối năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên
cao trào kháng Nhật cứu nước; quyết định Tổng khởi nghĩa của Hội nghị Ðảng toàn
quốc tháng 8-1945.
Các Hội nghị Trung ương Ðảng (11-1939), (11-1940) và nhất là Hội nghị Trung
ương tám (5-1941) đã đề ra những quan điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc.
Một là, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội
nghị Trung ương 11-1939 chủ trương "Phải đưa cao cây cờ dân tộc lên".
"Bước đường sinh tồn của các dân tộc Ðông Dương không có con đường nào
khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng
hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập". Hội nghị Trung ương tám do
Hồ Chí Minh chủ trì (5-1941) nhấn mạnh: "Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc
lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Ðảng ta". "Trong lúc
này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của
toàn thể dân tộc".
Hai là, động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận
dân tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận Việt Minh. Nếu Hội
nghị Trung ương chủ trương lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Ðông Dương
thì Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 chủ trương lập Mặt trận riêng của Việt Nam
đó là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Tổ chức Mặt trận trong khuôn khổ
dân tộc Việt Nam
nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu nước nhằm vào mục tiêu độc lập dân
tộc. Mặt trận được xây dựng hệ thống tổ chức chặt chẽ và bao gồm các đoàn thể
cứu quốc. Ðảng lãnh đạo Mặt trận bằng cách đưa quan điểm, chính sách vào các
đoàn thể và hoạt động của Mặt trận và thông qua các đảng viên tham gia Mặt trận
và đoàn thể.
Ba là, Ðảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Sau
khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Ðảng chủ trương phát triển lực lượng vũ trang
từ đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, xây dựng cứu
quốc quân. Ngày 28-1-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước và trực tiếp chỉ đạo
xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Cao Bằng. Tại các căn cứ địa lực lượng chính
trị của quần chúng tập hợp trong Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển rộng
lớn. Từ lực lượng chính trị đó phát triển lực lượng vũ trang. Những vấn đề về
chính quyền, về kinh tế, xã hội cũng được đặt ra và thực hiện ở vùng căn cứ địa
cách mạng.
Bốn là, Ðảng đặt nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang để giành độc lập, giành chính
quyền là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị Trung ương (11-1939) đã chủ trương: dự bị
những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị
trung ương (5-1941) xác định: "Cuộc cách mạng Ðông Dương phải kết liễu bằng
một cuộc khởi nghĩa võ trang". Phải chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để có thể
"lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể
giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Các hội nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân tích tình hình chiến
tranh thế giới, âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp, phát-xít Nhật và dự báo thời
cơ, chỉ đạo xây dựng lực lượng về mọi mặt, chú trọng công tác xây dựng Ðảng để
Ðảng có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng dân
tộc.
Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, phong trào cách mạng
trong nước đã phát triển mạnh mẽ, Ðảng và Mặt trận Việt Minh đã chủ trương về
sửa soạn khởi nghĩa và sắm võ khí đuổi thù chung. Hồ Chí Minh trong thư gửi
đồng bào toàn quốc 10-1944 đã chỉ rõ Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở
trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh.
Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
(22-12-1944).
Ngày 9-3-1945 phát-xít Nhật đã làm đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp để độc chiếm
Ðông Dương. Thường vụ Trung ương Ðảng đã kịp thời ra bản chỉ thị lịch sử: Nhật
- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12-3-1945). Chỉ thị nêu rõ kẻ thù
của cách mạng là phát-xít Nhật, vì vậy khẩu hiệu là Ðánh đuổi phát-xít Nhật.
Ðảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc
tổng khởi nghĩa. Ðây là thời kỳ tiền khởi nghĩa, phải thay đổi mọi hình thức
tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho phù hợp. Sẵn sàng chuyển sang
tổng khởi nghĩa. Chỉ thị của Trung ương cũng phân tích thời cơ cách mạng và cho
rằng những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi.
Những điều kiện thuận lợi đó là: Chính trị khủng hoảng, kẻ thù hoang mang không
rảnh tay đối phó với cách mạng; nạn đói ghê gớm làm cho quần chúng căm ghét
quân cướp nước; chiến tranh thế giới đến giai đoạn quyết liệt; Ðồng minh sẽ đổ
bộ vào Ðông Dương để đánh Nhật. Ðó là sự vận dụng tư tưởng của Mác và Lê-nin về
khởi nghĩa vũ trang phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những điều kiện
để khởi nghĩa mà chỉ thị của Trung ương nêu ra đã là định hướng quan trọng để
các đảng bộ địa phương chủ động phát động và lãnh đạo khởi nghĩa. Bản Chỉ thị
còn chủ trương phá kho thóc gạo của đế quốc để cứu đói, lập Ủy ban quân sự cách
mạng và xây dựng chính quyền (các Ủy ban dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân
cách mạng).
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cao trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Tháng 4-1945
các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 4-6-1945,
thành lập khu giải phóng Việt Bắc với sáu tỉnh như là căn cứ địa của cách mạng
cả nước, hình ảnh của nước Việt Nam
mới. Tổ chức Việt Minh phát triển rộng khắp trên cả nước. Không chỉ ở căn cứ
địa, ở vùng nông thôn mà phong trào ở đô thị cũng phát triển mạnh mẽ, nhất là
phong trào công nhân, học sinh, sinh viên trí thức. Theo tư tưởng của Ðề cương
văn hóa 1943 của Ðảng, tổ chức văn hóa cứu quốc đã tập hợp đông đảo các nhà văn
hóa vào trận tuyến đấu tranh cách mạng của dân tộc.
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về Tuyên Quang. Tại Tân Trào
(Tuyên Quang) đã diễn ra Hội nghị toàn quốc của Ðảng họp ngày 14 và 15-8-1945.
Hội nghị của Ðảng họp ở thời điểm lịch sử phong trào cách mạng của toàn dân ta
diễn ra sôi sục trong cả nước và phát-xít Nhật đầu hàng vô điều kiện (15-8).
Ðảng ta nhận định "cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới".
Mục đích cuộc chiến đấu của ta giành quyền độc lập hoàn toàn. Tiến hành cuộc tổng
khởi nghĩa theo ba nguyên tắc: a) Tập trung -tập trung lực lượng vào những việc
chính; b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành
động và chỉ huy; c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ thời cơ. Khẩu
hiệu đấu tranh của Ðảng là Phản đối xâm lược, hoàn toàn độc lập, chính quyền
nhân dân. Hội nghị Ðảng toàn quốc công bố mười chính sách của Việt Minh và nhấn
mạnh chủ trương "Lập nên một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc
lập".
Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) được ban bố: Chúng ta
phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận
trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta. Cũng ở thời điểm lịch sử đó
Hồ Chí Minh có Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu rõ: "Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta".
Ngày 16-8-1945, Quốc dân Ðại hội họp và ra Nghị quyết về giành chính quyền toàn
quốc và thi hành mười chính sách lớn của Việt Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng
được thành lập gồm 15 ủy viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Thường trực Ủy ban
gồm Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Ðức
Hiền trực tiếp chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa. Ủy ban dân tộc giải phóng là tổ
chức tiền thân của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Nghị quyết
của Quốc dân Ðại hội nhấn mạnh mục tiêu: "Giành lấy chính quyền, xây dựng
một nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập".
Thực hiện Nghị quyết của Ðảng và Quốc dân Ðại hội, chỉ trong vòng hai tuần từ
14 đến 28-8-1945, nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc
Cách mạng Tháng Tám. Sự lãnh đạo kiên quyết, sáng suốt và kịp thời của Trung
ương Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định thắng lợi. Khi nghiên
cứu về vai trò lãnh đạo của Ðảng, cần phải thấy rõ tinh thần trách nhiệm cao,
sự năng động, chủ động, sáng tạo của các đảng bộ địa phương, tức các xứ ủy,
tỉnh ủy, huyện ủy và tổ chức đảng ở cơ sở. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu ở Hà
Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) và cả những tỉnh xa xôi, điều kiện liên
lạc khó khăn đã thể hiện điều đó. Vai trò của hệ thống tổ chức đảng từ Trung
ương đến cơ sở, của các đảng viên kiên trung của Ðảng, từ người lãnh đạo cao
nhất đến người đảng viên ở cơ sở, đã bảo đảm cho Ðảng sự lãnh đạo, điều hành
tập trung, thống nhất ở giờ phút quyết định của lịch sử.
Cách mạng Tháng Tám đã diễn ra đúng như chủ
trương, định hướng của Đảng và giành thắng lợi. Giá trị khoa học và
thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám không tách rời quan điểm, đường
lối sáng tạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp
cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nguyên nhân dẫn đến
thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám có cả khách quan và chủ quan. Chúng ta
không thể phủ nhận tầm quan trọng của nhân tố khách quan, đó là sự biến chuyển
của tình hình thế giới, khu vực ở thời điểm đó đã tác động tích cực, tạo thuận
lợi đối với cách mạng Việt Nam.
Nhưng phải thấy nhân tố chủ quan, đó là sự nỗ lực của Đảng và nhân dân ta giữ
vai trò quyết định. Điều đó thể hiện ở đường lối, chủ trương, phương pháp cách
mạng đúng đắn và biểu hiện cụ thể ở việc nắm bắt và tận dụng thời cơ chín muồi
cũng như tập hợp, xây dựng lực lượng cách mạng đủ mạnh để sẵn sàng cho tổng
khởi nghĩa. Sự thật là vậy, mà sự thật lịch sử thì mãi mãi là sự thật và giá
trị của nó là ở đó. Thế nhưng các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị
vẫn ra sức xuyên tạc, bóp méo sự thật, dù họ vẫn biết là vô vọng. Thật vô lý,
kệch cỡm và nực cười!
Bác viết hay và sâu sắc quá.
Trả lờiXóa