Thứ Hai, 1 tháng 4, 2019

TÌM HIỂU PHONG CÁCH QUẦN CHÚNG TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”



Kỷ niệm 70 năm tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Hồ Chí Minh ra đời, giữa lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang nỗ lực phấn đấu thực hiện Chỉ thị Số 05-CT/TW ngày 15/05/2016 của Bộ Chính trị và “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” - Một nội dung quan trọng  của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Chúng ta bồi hồi, xúc động khi lật đọc, suy ngẫm qua từng trang tác phẩm, tìm thấy trong đó những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ… trong điều kiện Đảng cầm quyền. Đồng thời, qua đó cũng tìm thấy phong cách tư duy, làm việc, diễn đạt, ứng xử, phong cách sống của một vĩ nhân. Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là tác phẩm lớn về xây dựng Đảng, nhưng nội dung của nó cũng chứa đựng nội dung  “một cuộc cách mạng” về phong cách làm việc mới - phong cách Hồ Chí Minh.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” không có mục nào viết riêng về phong cách, nhất là phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh. Nhưng đọc kỹ chúng ta dễ dàng nhận thấy sự hiện diện rất rõ phong cách Hồ Chí Minh, trong đó phong cách quần chúng là nổi trội. Đây là nội dung, tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm. Tất cả các mục đã thể hiện phong cách ứng xử yên dân, quý trọng dân, tất cả vì nhân dân mà phục vụ của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không chỉ là nhà hoạt động lý luận lỗi lạc, mà còn là nhà hoạt động thực tiễn sâu sắc, phong phú. Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn gần gũi với dân, gắn bó với dân, hiểu thấu đáo tâm tư, nguyện vọng của dân, luôn lấy dân làm đối tượng phục vụ. Quá trình đó hình thành phong cách quần chúng Hồ Chí Minh. Phong cách đó bắt nguồn sâu xa từ tư tưởng lớn “Nước lấy dân làm gốc” của Người. Vậy nhân dân là ai? Theo Hồ Chí Minh - nhân dân bao gồm có giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các cá nhân yêu nước khác. Đó là phạm trù cao quý, một phạm trù chính trị mang tính chủ đạo trong toàn bộ học thuyết cách mạng của Người. Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Đó là minh chứng điển hình về niềm tin mãnh liệt của Hồ Chí Minh vào sức mạnh nhân dân. Với nhãn quan chính trị sắc xảo, phong cách gần dân, Người đã nhận thấy “Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém. Mà trong ba hạng đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa, nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng kém đều ít hơn”[1]. Cách mạng muốn thành công, Đảng cách mạng phải biết phát huy sức mạnh của quần chúng, của các hạng người đó trong xã hội, nhưng trước hết phải biết lôi kéo, tập hợp phát huy những nhân cốt từ hạng hăng hái, lấy đó là lực lượng trung kiên cho sự lãnh đạo. Lực lượng trung kiên phải thường xuyên giữ mối quan hệ với quần chúng, là chủ lực vững chắc cho sự lãnh đạo của Đảng.  Phải từ lực lượng trung kiên “mà nâng cao hạng vừa vừa, hạng kém tiến lên”. Đó là phong cách ứng xử, tin yêu quần chúng của Hồ Chí Minh.
Trong quá trình tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, Hồ Chí Minh luôn đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng lên hàng đầu, coi đó là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhưng chỉ một mình đội tiền phong không bao giờ hoàn thành được nhiệm vụ tiền phong của mình. Muốn hoàn thành nhiệm vụ tiền phong Đảng phải biết dựa vào dân, lôi kéo quần chúng nhân dân, tập hợp tổ chức giáo dục nhân dân bởi lẽ “lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng…”2. Người khẳng định: “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong”3 và Người khẳng định một cách đanh thép: Dân chúng đồng lòng việc gì làm cũng được, dân chúng không ủng hộ việc gì làm cũng không nên. Đối với Hồ Chí Minh quần chúng là lực lượng to lớn, sức mạnh là vô địch. Ngay từ buổi bình minh của cách mạng, khi Đảng mới thành lập, Đảng đã chỉ rõ “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại được”. Dựa vào dân, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân Đảng phải giữ mối liên hệ với quần chúng. Đó là nền tảng xã hội, lực lượng to lớn thường xuyên bổ sung cho Đảng và nhờ đó Đảng lãnh đạo cách mạng thắng lợi. Nếu cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng cũng như “lơ lửng giữa trời nhất định thất bại”.
Phong cách quần chúng Hồ Chí Minh còn biểu hiện sâu sắc ở chỗ không những chỉ đánh giá đúng quần chúng và vai trò của quần chúng, thường xuyên giữ mối quan hệ với quần chúng mà còn phải tin tưởng quần chúng, tôn trọng quần chúng bởi lẽ: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”1. Bởi vì “tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy”2. Quan điểm đó khác hẳn với quan điểm của một số người lại cho rằng: Dân là dốt, không biết gì, mình là người thông thái tài giỏi. Vì vậy, họ không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng. Đó là một sự sai lầm nguy hiểm lắm. Và Người cho rằng: Ai có sai lầm đó phải mau sửa đổi nếu không sẽ luôn luôn thất bại. Phải học hỏi quần chúng, lắng nghe ý kiến quần chúng từ cơ sở, nhưng không được theo đuôi quần chúng. Đó là nguyên tắc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, mọi hoạt động về mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân.
Đánh giá đúng quần chúng, vai trò của quần chúng tin yêu, quý trọng quần chúng, phát huy vai trò của quần chúng không chỉ nhằm khai thác sức dân, huy động sức dân, đòi hỏi người dân luôn đóng góp nhân lực, vật lực cho cách mạng. Điều dễ thấy trong chủ trương “giành thắng lợi bằng mọi giá” trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong các cuộc chiến tranh trước đây nhân dân sẵn sàng chấp nhận sự hy sinh, mất mát, cống hiến cho Đảng, cho cách mạng, giành cho được độc lập, tự do. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa mọi chủ trương, đường lối của Đảng phải đúng quy luật, đúng thực tiễn khách quan, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng, khả năng của quần chúng. Trong điều kiện đó đòi hỏi Đảng khi hoạch định đường lối, chủ trương phải luôn xuất phát “Từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”1. Đường lối, chủ trương là của Đảng, nhưng phải xuất phát từ cơ sở, từ yêu cầu của thực tiễn khách quan. Trước khi ban hành, trong quá trình tổ chức thực hiện, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên xin ý kiến của nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thái độ tiếp nhận đường lối, chủ trương của Đảng của nhân dân. Đây là điển hình trong phong cách lãnh đạo khoa học, cách mạng của Đảng cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo đúng: Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng, phải tổ chức thi hành cho đúng, phải kiểm tra, kiểm soát đúng. Những việc đó phải có dân chúng giúp mới xong. Hồ Chí Minh cho rằng “khi đem vấn đề ra bàn trước dân chúng, họ đem các ý kiến khác nhau so sánh. So đi sánh lại, sẽ lòi ra một ý kiến mà mọi người đều tán thành, hoặc số đông người tán thành. Ý kiến đó lại bị họ so sánh tỉ mỉ trong từng đoạn, họ thêm điểm hay vào, bỏ điểm dở đi. Ý kiến đó trở nên ý kiến đầy đủ, thiết thực”2… và Người chỉ rõ: “Theo ý kiến đó mà làm, nhất định thành công. Làm không kịp ý kiến đó, là đầu cơ, nhút nhát. Làm quá ý kiến đó, là mạo hiểm, hẹp hòi, “tả”3. Như vậy, Hồ Chí Minh luôn khẳng định quá trình hoạch định, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng phải chống cả hai khuynh hướng, tả khuynh, hữu khuynh. Chỉ có như thế đường lối của Đảng mới đúng đắn, mới trở thành hiện thực khi được quần chúng ủng hộ, tham gia tổ chức thực hiện.
Quần chúng luôn so sánh, quan sát để tìm ra cái đúng, phong cách người lãnh đạo cũng phải vậy và hơn thế nữa. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải học cách so sánh của nhân dân và bản thân mỗi người phải tự biết so sánh. Người lãnh đạo hơn quần chúng là ở chỗ, luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng, nhưng phải biết phân tích, tổng hợp những ý kiến tưởng như rời rạc, lẻ tẻ của nhân dân để tìm thấy những điểm hợp lý, tương đồng, có giá trị phổ quát, từ đó khái quát thành đường lối, chủ trương của Đảng. Sau khi có đường lối, lại đem nó trở về nơi quần chúng, giải thích cho quần chúng, xin ý kiến quần chúng, hướng dẫn quần chúng thực hiện. Đó là quy trình phong cách lãnh đạo đúng của Đảng cầm quyền, nhân tố đảm bảo sự hài hòa giữa “ý Đảng, lòng dân”, Đảng lãnh đạo cách mạng thắng lợi.
Do không quán triệt, thực hiện đúng phong cách quần chúng trong xác định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và tổ chức thực hiện nó khi cả nước độc lập thống nhất. Đảng đã phạm phải “sai lầm lạc hậu về nhận thức lý luận”, vừa tả khuynh, vừa hữu khuynh trong tổ chức thực hiện đã dẫn đến hậu quả đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX và kéo dài trong nhiều năm sau. Cách mạng dường như “dậm chân tại chỗ”, có điểm thụt lùi, đời sống nhân dân khó khăn, khoảng cách giữa Đảng và nhân dân ngày càng doãng ra, Đảng có nguy cơ mất dần quần chúng, vai trò, uy tín của Đảng bị giảm sút. Để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, Đảng phải tìm tòi đổi mới cách nghĩ, cách làm đúng quy luật, đúng thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, phải thực hiện đúng phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh.
Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của những năm cuối thế kỷ XX, quần chúng nhân dân đã sáng tạo ra nhiều cách nghĩ, cách làm hay để tháo gỡ khó khăn, tự cứu mình. “Khoán chui” trong các hợp tác xã nông nghiệp, “xé rào” trong các doanh nghiệp, các địa phương lần lượt ra đời và được Đảng sớm phát hiện, từng bước tổng kết, khái quát thành đường lối đổi mới của Đảng bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12 năm 1986)  đến nay. Đường lối đó thực sự thể hiện sự liên hiệp giữa tính năng động, sáng tạo của quần chúng ở bên dưới, với sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng từ bên trên. Đường lối đó là sự hòa quyện giữa “ý Đảng, lòng dân”, từng bước được hiện thực hóa, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước công nghiệp hiện đại. Đời sống nhân dân được cải thiện, lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng ngày được nâng cao, mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng ngày càng bền chặt. Đó là nhân tố cơ bản đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước.
70 năm đã trôi qua, chúng ta có điểm dừng cần thiết để nhìn nhận đánh giá giá trị, ý nghĩa lịch sử hiện thực của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Đặc biệt chúng ta có điều kiện để nhìn nhận, đánh giá, thực hiện phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có phong cách quần chúng của Người nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương đẩy mạnh “Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”./.
                                                                                                    Hồng


[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 329.
2, 3 Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 335.
1 Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 335.
2 Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 336.
1 Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 331.
2 Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, Tập 5, tr. 336.

1 nhận xét:

  1. Tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mãi mãi toả sáng cho mọi thế hệ học tập và làm theo

    Trả lờiXóa