Trang

Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019

ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG TRONG HOẠCH ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945)



Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện. Gần 90 năm năm xây dựng, chiến đấu và độc tôn lãnh lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trưởng thành mọi mặt, thực sự là một chính đảng mácxít-Lêninnít chân chính, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Để Đảng trở thành nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đòi hỏi nhiều điều kiện trong đó cốt lõi là tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo trong hoạch định đường lối cách mạng của Đảng. Thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng đã chứng minh: Độc lập, tự chủ và sáng tạo là một trong những bài học kinh nghiệm sâu sắc, truyền thống quý báu, góp phần hình thành và phát triển bản lĩnh, trí tuệ của Đảng. Tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng được hình thành và phát triển qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng. Đặc biệt trước những bước chuyển giai đoạn của cách mạng hay những thời kỳ cách mạng  gặp khó khăn hoặc đứng trước những nhiệm vụ mới thì tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng lại càng tỏa sáng và trở thành nhân tố quyết định phương hướng, tốc độ và kết quả phát triển của cách mạng. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là một thời kỳ đặc biệt trong lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng đồng thời cũng là thời kỳ thể hiện sinh động và sâu sắc tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của một đảng cộng sản vừa mới ra đời để trở thành một chính đảng cầm quyền khi 15 năm tuổi. Tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong xác định đường lối đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945) thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, độc lập, tự chủ và sáng tạo trong xác định phương hướng, mục tiêu con đường  và nhiệm vụ cách mạng.
Phương hướng, mục tiêu, con đường và nhiệm vụ cách mạng là những vấn đề chiến lược, liên quan trực tiếp đến thành bại của cách mạng. Nhất quán trong các văn kiện của Đảng thời kỳ đấu tranh giành chính quyền đều thể hiện chủ trương thực hiện con đường cách mạng vô sản, phấn đấu thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn nhất quán, phản ánh sự trung thành của Đảng đối với lý luận Mác – Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận hình thái kinh tế xã hội cũng như cách mạng vô sản. Tuy nhiên đó không phải là phản ánh rập khuôn máy móc, sao y bản chính, mà được phản ánh sáng tạo phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng chỉ rõ: làm tư sản dân quyền cách mạnh và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đặc biệt, Luận cương tháng 10. 1930 của Đảng còn làm rõ về các giai đoạn trong toàn bộ tiến trình cách mạng vô sản, luận giải các điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Đây là phát triển làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác - Lênin. Điều này là sự đóng góp lớn của Đảng đối với hệ thống lý luận, đặc biệt là trong bối cảnh Đảng vừa mới ra đời từ một nước thuộc địa nửa phong kiến. Sự đóng góp đó chính là hiện thực hóa tính lịch sử cụ thể của thế giới quan phương pháp luận macxit. Đúng như Lênin đã dạy những người cộng sản: chúng ta không hề coi lý luận Mác như những gì đã xong xuôi hẳn, mà tin rằng đó chỉ là môn khoa học mà trách nhiệm những người cộng sản tiếp tục bổ sung và phát triển nếu như không muốn lạc hậu so với cuộc sống.
          Xác định nhiệm vụ cách mạng trong đường lối đấu tranh giành chính quyền (1930-1945) thể hiện rõ tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng. Nhất quán nhiện vụ đánh đế quốc, đánh phong kiến giành độc lập dân tộc và ruộng đất dân cày. Xác định như vậy là hoàn toàn phù hợp cả về lý luận Mác – Lênin và chủ trương của Quốc tế cộng sản  mà trực tiếp là Nghị quyết Đại hội VI của Quốc tế cộng sản. Tuy nhiên, điểm sáng tạo trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là trong chỉ đạo chiến lược, giải quyết đúng đắn hai nhiệm vụ đánh đế quốc và đánh phong kiến, giải quyết nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ dân chủ. Tiến hành đồng thời nhưng không nhất loạt ngang nhau. Hết sức linh hoạt, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo cho phù hợp với mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, tương ứng với các cao trào 1930- 1931, 1932-1935, 1936 – 1939, và 1939 – 1945. Đặc biệt biết tập trung lực lượng thực hiện nhiệm vụ đánh đế quốc tay sai giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ đánh phong kiến rải ra từng bước, phục vụ nhiệm vụ đánh đế quốc. Đây là sự sáng tạo tuyệt vời trên cơ sở một bản lĩnh và trí tuệ ngời sáng của Đảng.  
Thứ hai, độc lập, tự chủ và sáng tạo trong xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng.
 Lực lượng cách mạng luôn là vấn đề chiến lược của mọi cuộc cách mạng, tiến độ phát triển của cách mạng phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của toàn bộ nguồn nhân lực, vật lực huy động và tham gia cách mạng. Trung thành với lý luận Mác- Lênin, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự lực tự cường, đem sức ta mà giải phóng cho ta. Đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng luôn nhất quán chủ trương huy động sức mạnh của toàn dân tộc, thông qua quá trình tập hợp và giác ngộ và huy động toàn dân tham gia khởi nghĩa giành chính quyền. Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của Đảng. Tuy nhiên, sự sáng tạo trong xây dựng phát triển lực lượng cách mạng của Đảng thể hiện ở nghệ thuật tổ chức xây dựng lực lượng (phong trào vô sản hóa (1928), biến nhà tù thành trường học (1932-1935)...), giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Đặc biệt trên cơ sở phân tích khoa học địa vị kinh tế và thái độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, Đảng đã có chủ trương tập hợp lôi kéo cả địa chủ và tư sản dân tộc về phái cách mạng, góp phần tạo dựng được một lực lượng cách mạng to lớn. Đây là sự sáng tạo của Đảng, trên cơ sở nắm chắc đặc điểm thực tiễn xã hội Việt Nam và phân tích khoa học tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch.
Thứ ba, độc lập, tự chủ và sáng tạo trong xác định phương pháp cách mạng và hình thức đấu tranh.
Đường lối đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ, lực lượng cách mạng đúng đắn thì vấn đề liên quan trực tiếp đến thành bại của cách mạng là vấn đề phương pháp. Trong tác phẩm Kháng chiến nhất định tháng lợi của Cố Tổng bí thư Trường Chinh chỉ rõ: Cách mạng gặp khó khăn, dậm chân tại chỗ, thậm chí là đổ vỡ không phải không có đường lối đúng mà do phương pháp cách mạng không phù hợp.Nhận thức tầm quan trọng của phương pháp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm;lãnh đạo, xác định phương pháp cách mạng phù hợp. Thấm nhuần quan điểm cách mạng bạo lực với phương pháp dùng bạo lực cách mạng để đạp tan bạo lực phản cách cách mạng của kẻ thù. Đặc biệt, trên cơ sở kiểm nghiệm các phương pháp cách mạng của các phong trào cứu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong suốt thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, phương pháp bạo lực cách mạng luôn là chủ trương nhất quán, sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Tuy nhiên điểm sáng tạo của Đảng trong xác hđịnh phương pháp cách mạng thời kỳ này là chủ trương thực hiện bạo lực cách mạng của quần chúng, thực hiện vũ trang toàn dân, tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Đặc biệt, tính sáng tạo của Đảng còn thể hiện ở nghệ thuật sử dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh công khai hợp pháp và bí mật, bất hợp pháp cũng như nửa công khai hợp pháp.
Thứ tư, độc lập, tự chủ và sáng tạo trong chớp thời cơ và tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền (tháng 8.1945).
 Khởi nghĩa vũ trang là hình thức cụ thể của con đường cách mạng bạo lực được Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng trong đấu tranh giành chính quyền năm 1945. Đây là sự lụa chọn trên quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lê nin về đấu tranh cách mạng. Tuy nhiên nghệ huật tổ chức và tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở Việt Nam lại là một nghệ thuật đầy tính sáng tạo xét trên cả mặt lý luận và thực tiễn. Trước hết khi chưa có tình thế và thời cơ cách mạng, Đảng lãnh đạo tiến hành các hoạt động chuẩn bị các điều kiện, thúc đẩy thời cơ, tình thế cách mạng. Đặc biệt, Luận cương chính trị Tháng 10.1930, đã phát triển lý luận về khởi nghĩa vũ trang một cách sâu sắc mà biểu hiện tập trung ở hệ thống hóa các dấu hiệu của tình thế, thời cơ cách mạng. Hơn nữa, trong cao trào cahs mạng 1939 – 1945, khi tình thế, thời cơ cách mạng dần xuất hiện, Đảng luôn bám sát thực tiễn, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nhanh chóng năm bắt và tận dụng thời cơ ngàn năm có một để thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng tháng Tám. Đặc biệt hính thái khởi nghĩa đi từ từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, không gò ép nông thôn hay thành thị, ở đâu có điều kiện khởi nghĩa thắng lợi thì nhanh chóng tiến hành. Đó là những biểu hiện sinh động cho tinh thần độc lập, tự chủ của Đảng trong chớp thời cơ tiến hành thành công tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi Đảng mới 15 năm tuổi và khoảng hơn 5000 đảng viên.
Để tiếp tục phát huy tinh thần độc lập, tụ chủ và sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện tốt những nội dung, yêu cầu mới. Phải kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và sáng tạo. Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân./.
                                                                                                ĐH









1 nhận xét: