Tuynh lê
Ở nước ta, cuộc đấu
tranh tư tưởng, lý luận nhằm chống lại các quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên
tạc của các thế lực thù địch là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, nóng bỏng
và rất phức tạp hiện nay. Cuộc đấu tranh đó có nội dung toàn diện, sâu sắc, diễn
ra trên tất cả các mặt của ý thức xã hội. Trong đó, xung quanh vấn đề nhận thức
và giải quyết của Đảng ta về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị ở Việt Nam là một trong những tiêu điểm công kích,
chống phá và xuyên tạc của kẻ thù.
Trong dàn hợp xướng hòng xuyên tạc, chống phá cách
mạng nước ta của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đã và đang có những
luận điệu xuyên tạc rằng “Ở Việt Nam chỉ có đổi mới kinh tế, không có đổi mới
chính trị”, đổi mới chính
trị “lệch pha” so với đổi mới kinh tế.
Thực tế cho
thấy, cùng với những thành tựu to lớn trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước
hơn 30 năm qua nói chung và sự đúng đắn trong nhận thức, tư duy về quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng, Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng từng bước giải quyết hài hòa, linh hoạt, sáng tạo và có hiệu quả mối
quan hệ giữa hai lĩnh vực cơ bản này; góp phần quan trọng vào thành tựu chung
của sự nghiệp đổi mới đất nước. Mặc dù vậy, khách quan đánh giá, chúng ta vẫn
còn tồn tại một số hạn chế nhất định trong quá trình nhận thức và xử lý mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta. Song nếu chỉ dựa
vào những khiếm khuyết (mặt thứ yếu, không cơ bản) của vấn đề này mà lại vội
vàng quy chụp cho rằng, ở Việt Nam chỉ có
đổi mới kinh tế, không có đổi mới chính trị; hoặc đổi mới chính trị “lệch pha”
so với đổi mới kinh tế,… thì quả là một sự “ngụy biện” có chủ đích; một sự
xuyên tạc, bó mép trắng trợn, thô thiển của các thế lực thù địch.
Bởi lẽ, sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, sự
thống nhất biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là nét độc đáo
riêng có của Việt Nam, hoàn toàn khác với Liên Xô, với các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu trước đây, cũng như khác ngay cả với Trung Quốc. Nếu
như ở Liên Xô, ngay trong bước đầu của cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đi vào
cải tổ chính trị, nêu ra dân chủ hóa, công khai hóa; hơn nữa, lại để phong trào
phát triển vô chính phủ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tách Đảng
khỏi Nhà nước, tách Nhà nước ra khỏi Đảng, nêu khẩu hiệu Đảng hóa thân vào Nhà
nước. Xét đến cùng, đây là sự vô hiệu hóa Đảng, nên đã dẫn đến tan vỡ Đảng, sụp
đổ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự tan rã của Liên bang Xô Viết. Trong khi
đó, Trung Quốc ngay từ
đầu đã tiến hành đồng bộ cải cách thể chế chính trị với cải cách kinh tế, chính
vì vậy đã tạo sự phát triển ấn tượng. Nhưng, sau sự kiện năm 1989, tốc độ cải
cách chính trị có phần chững lại, thậm chí có biểu hiện không theo kịp đà cải
cách và phát triển trong lĩnh vực kinh tế. Bất cập này đã tác động bất lợi đến
sự phát triển kinh tế, làm nảy sinh các tiêu cực và nhiều vấn đề khác như phân
hóa xã hội, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập,... Trái lại, ở Việt Nam, ngay
từ khi đề ra đường lối đổi mới cũng như trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi
mới, Đảng ta xác định: “Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị”; “Kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị”; “Đổi mới chính trị phải
đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp”, v.v..
Điều đó chỉ rõ, công cuộc đổi mới ở nước ta vừa có đổi mới kinh tế, vừa có đổi mới chính
trị. Đổi mới kinh tế không phải là đổi mới một cách tùy tiện, vô nguyên
tắc mà theo một định hướng chính trị nhất định. Đổi mới, phát triển kinh tế tạo
ra môi trường và điều kiện để củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị, là
nhân tố suy đến cùng quyết định sự ổn định chính trị - xã hội. Ngược lại, đổi
mới chính trị lại tạo ra cơ sở chính trị - pháp lý cho sự phát triển kinh tế;
đồng thời tạo động lực và gia tăng sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế.
Với những luận chứng, luận cứ nói trên
chứng minh một cách rõ ràng rằng, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt
Nam luôn song hành, hỗ trợ, bổ sung cho nhau; làm cơ sở, tiền đề, điều kiện của
nhau; giữa chúng luôn có mối quan hệ biện chứng và thống nhất hữu cơ với nhau.
Đó cũng chính là bằng chứng sinh động để phản bác một cách thuyết phục những luận điệu xuyên tạc rằng
“Ở Việt Nam chỉ có đổi mới kinh tế, không có đổi mới chính trị”, đổi mới chính trị
“lệch pha” so với đổi mới kinh tế./.
PHẢI CHĂNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ CAO ĐẠO ĐỨC LÀ DUY TÂM?
Kiên Trung
Với mưu đồ đen tối hòng bôi nhọ uy tín, xóa bỏ những
cống hiến to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã và
đang có không ít quan điểm, luận thuyết cho rằng: “Hồ Chí Minh luôn đề cao thái
quá, tuyệt đối hóa đạo đức nên rõ ràng là một nhà duy tâm chủ nghĩa”. Vì theo họ,
đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng của xã hội, là một trong những
hình thái ý thức xã hội. Tức là mặt tinh thần của đời sống xã hội.
Đúng
là ở Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới vấn đề đạo đức nói chung, và việc giáo dục,
rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói riêng; coi đó
là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, là cái gốc của cây, ngọn nguồn
của sông nước. Song, điều đó không phải một sự ngẫu nhiên hay là chủ quan duy ý
chí của Người. Trái lại, cơ sở hiện thực và tính khoa học, cách mạng trong hệ
thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã khẳng định rõ điều này.
Với tư duy khoa học và tầm
nhìn chiến lược cùng với sự mẫn cảm chính trị sâu sắc, Người đã tiên lượng, sớm
chỉ ra và cảnh báo nguy cơ cán bộ, đảng viên dễ mắc phải “căn bệnh” suy thoái
đạo đức, chủ nghĩa cá nhân. Bởi họ nắm trong tay “chìa khóa” của quyền lực, lại
phải thường xuyên đối mặt với cạm bẫy và cám dỗ về lợi ích vật chất, nên đội
ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên lãnh đạo, quản lý cơ bản đứng
trước nguy cơ bị thoái hóa, biến chất về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối
sống,… Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nguy cơ đó sẽ ngày càng tăng nếu mỗi cán
bộ, đảng viên xem thường việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn coi trọng và đặt ra yêu cầu cao đối với cán
bộ, đảng viên về việc tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức.
Mặt
khác, đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nền "đạo đức cách mạng, là đạo đức mới chứa đựng trong đó tất cả tính khoa học và cách mạng của
nó. Đạo đức đó không phải là đạo đức cũ - đạo đức thủ cựu. Đạo đức
cũ, thủ cựu là đạo đức của giai cấp bóc lột, là công cụ tinh thần để thống trị,
bóc lột nhân dân lao động và chỉ phục vụ cho lợi ích, danh vọng của giai cấp ấy.
Ngược lại, ở Hồ Chí Minh đó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì
danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người.
Đó là nền đạo đức mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính dân tộc và nhân
dân sâu sắc, có tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung.
Các
chuẩn mực của nền đạo đức mới được xác lập trên lập trường của giai cấp công
nhân, của Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với lợi ích của cách mạng, của dân tộc
và của nhân loại mà thực chất là hướng tới giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người, hướng tới phục vụ Đảng, phục vụ cách mạng và phụng
sự Tổ quốc theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Bất cứ suy nghĩ, hành động nào nhằm
những mục đích cao cả đó đều là chân thực nhất, thiện nhất và đẹp nhất. Mọi suy
nghĩ, hành động đi ngược lại những mục đích cao cả đó đều là giả dối nhất, độc
ác nhất và xấu xa nhất.
Bên cạnh đó, Người
còn khẳng định, đạo đức không phải có sẵn trong con người, lại càng không phải
do "Thượng đế" ban cho, mà là kết quả của quá trình đấu tranh, tu dưỡng
thường xuyên, kiên trì và bền bỉ trong mọi mặt của đời sống xã hội. Nói cách
khác, để có đạo đức theo Hồ Chí minh con người phải phấn đấu tu dưỡng sao cho
phần thiện ngày càng nảy nở như hoa mùa xuân, còn phần ác ngày càng mất dần đi.
Đặc biệt, tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức trên thực tế đã trở
thành một trong những phương châm chỉ đạo, kim chỉ nam và “cẩm nang” để Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng như mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng quán triệt, vận dụng
vào quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nói chung, công tác xây dựng Đảng
nói riêng; qua đó góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang trong các cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và đưa lại những thành
công to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 30 năm
qua.
Rõ ràng, những phân tích, lập luận với đầy đủ cơ sở lý luận
và thực tiễn, những bằng chứng và chỉ dẫn đầy sức thuyết phục nói trên đã chứng
tỏ các quan điểm, luận điệu của những kẻ
cơ hội chính trị, thù địch đã, đang cố tình cho rằng “Hồ Chí Minh đề cao đạo đức
là duy tâm” là một sự xuyên tạc, sai trái.
Chúng ta phải nhận biết và đấu tranh mạnh mẽ chống lại các luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam của bọn phản động và các thế lực thù địch
Trả lờiXóa